07/07/2020 | 15381 người đọc
Trước đây, green malachite được kết hợp với formalin dùng để điều trị bệnh trùng quả dưa và cho hiệu quả điều trị cao. Tuy nhiên, hóa chất thường tồn dư lâu trong cơ thể động vật làm ảnh hưởng đến máu, tế bào gan. Hiện, Bộ NN&PTNN đã cấm sử dụng hóa chất này, vì vậy, cần có giải pháp để thay thế green malachite trong điều trị bệnh trùng quả dưa.
Phương pháp nghiên cứu
Thu mẫu trùng quả dưa: Mẫu cá trắm cỏ nhiễm bệnh trùng quả dưa được đưa về phòng thí nghiệm, trùng quả dưa giai đoạn trùng trưởng thành (trophonts) được thu từ nhớt da của cá, và giữ ở nhiệt độ phòng trong 36 - 48 giờ, ấu trùng (theronts) nở ra sẽ được pha loãng để thu mẫu chứa dao động 5.000 - 7.500 theronts/ml.
Thu mẫu cá thí nghiệm: Các mẫu cá trắm cỏ sạch bệnh được thu gom từ các ao cá khỏe mạnh, kiểm tra kỹ không nhiễm trùng quả dưa và bất kỳ loài ký sinh trùng nào khác trước khi gây nhiễm. Cá được cho thích nghi với môi trường bể ương trong phòng thí nghiệm 48 giờ trước khi tiến hành thí nghiệm.
Phương pháp: Hóa chất được sử dụng gồm formalin đậm đặc (38%) và hỗn hợp PHA bao gồm 3 loại hóa chất có tính ôxy hóa gồm axit paracetic 15%, hydrogen peroxide (H2O2) 25% và axit acetic 25%. Pha chế thử nghiệm các công thức sau: Formalin 25 ppm (F25) kết hợp với hỗn hợp PHA ở các nồng độ 1, 3, 5, 7 và 10 ppm (PHA1, PHA3, PHA5, PHA7 và PHA10).
Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm in vitro (đối với ấu trùng)
Sử dụng đĩa nuôi cấy có 24 lỗ để chứa 20 - 30 µl dung dịch mẫu ấu trùng (200 - 250 ấu trùng). Sau đó, bổ sung các hỗn hợp hóa chất đã pha chế sẵn đủ 1 ml/lỗ và đạt các nồng độ cần thử nghiệm để tiến hành xử lý ấu trùng, trong đó có lỗ đối chứng không sử dụng hóa chất. Mỗi công thức điều trị được lặp lại 4 lần. Đĩa được giữ ở nhiệt độ 25oC và quan sát hiệu quả xử lý dưới kính hiển vi sau các khoảng thời gian xử lý khác nhau: 0, 1, 12, 24 và 48 giờ. Các ấu trùng bị chết được xác định là những ấu trùng không còn khả năng di động và bị biến đổi về mặt cấu trúc. Ấu trùng trong các lỗ được đếm từ trái sang phải, từ trên xuống theo mô tả của Xu et al. (2002).
Thí nghiệm in vivo (đối với trùng trưởng thành)
Thí nghiệm được tiến hành trong 21 bể (cỡ 40x50x60 cm), mỗi bể thí nghiệm chứa 40 lít nước. Sử dụng thiết bị cung cấp nhiệt để duy trì nhiệt độ nước ở mức 25 + 0,20C trong suốt thời gian thí nghiệm. Mỗi bể được bố trí 30 cá trắm cỏ hương (cỡ 4 + 0,24 g/con).
Các lô thí nghiệm, cá được gây nhiễm với 5 ml dung dịch nhớt chứa trùng quả dưa giai đoạn ấu trùng. Theo Ventura và Paperna (1985), trùng quả dưa mất khoảng 48 - 72 giờ để tìm, ký sinh lên da, mang cá và trở thành trùng trưởng thành, do vậy thử nghiệm sẽ được tiến hành sau 72 giờ gây nhiễm. Các lô cá được xử lý bằng hỗn hợp formalin 25 ppm và PHA ở các nồng độ 1, 3, 5, 7 và 10 ppm. Thời gian mỗi lần ngâm kéo dài 24 giờ, sau đó toàn bộ nước được thay hoàn toàn, cá được ngâm nhắc lại sau mỗi 2 ngày và lặp lại 5 lần. Trong khi đó, đồng thời gây nhiễm và điều trị song song 1 lô cá gây nhiễm bằng formalin + green malachite để tiện so sánh hiệu quả của 2 thử nghiệm.
Ngoài ra, thí nghiệm có thêm các lô đối chứng 1 (ĐC1) là bể được gây nhiễm nhưng không điều trị và đối chứng 2 (ĐC2) là bể cá không gây nhiễm và không điều trị. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần, điều kiện bể nuôi, chế độ cho ăn, chất lượng nước ở các lô được đảm bảo không có sự khác biệt và trong quá trình điều trị các bể đều được sục khí liên tục. Số lượng cá sống được ghi chép từng ngày, quá trình điều trị kết thúc sau 10 ngày, một nửa số cá ở các lô thí nghiệm và lô đối chứng được kiểm tra cường độ nhiễm và tỷ lệ nhiễm trung bình, số cá còn lại tiếp tục nuôi thêm 10 ngày và kiểm tra khả năng hồi phục của cá sau điều trị.
Kết quả thí nghiệm
Thử nghiệm in vitro: Kết quả điều trị bằng hỗn hợp formalin và PHA có tác dụng tốt trong quá trình xử lý ấu trùng, số lượng ấu trùng còn khả năng di chuyển và có hình thái bình thường giảm đi đáng kể theo thời gian. Tỷ lệ ấu trùng bị tiêu diệt không còn khả năng di chuyển và bị biến đổi về mặt cấu trúc cao nhất ở liệu trình điều trị F25 + PHA5-10, tỷ lệ chết 94 - 96,5% sau 48 giờ điều trị thử nghiệm.
Thử nghiệm in vivo: Được chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 là thời gian điều trị bằng các hỗn hợp hóa chất, giai đoạn 2 là giai đoạn theo dõi hồi phục và khả năng tự sinh miễn dịch chống lại trùng quả dưa của cá trắm cỏ. Kết quả cho thấy, hỗn hợp formalin 25 ppm + PHA10 ppm cho kết quả xử lý tốt nhất. Tỷ lệ sống của cá lây nhiễm cao, đạt 92,23%.
Như vậy, những trùng quả dưa còn sót lại ở lô đã được điều trị F25 + PHA10 trong vòng 10 ngày đầu ở giai đoạn 1 có thể hoặc không còn khả năng sinh sản do tác dụng của hỗn hợp điều trị hoặc bị tác động từ hệ thống miễn dịch của cơ thể dẫn đến chết và không tái nhiễm trên cá. Tuy nhiên, cần có những nghiên cứu chuyên sâu về miễn dịch của cá với thời gian theo dõi dài hơn để làm rõ vấn đề này.
Mặc dù, hiệu quả xử lý trùng quả dưa của formalin 25 ppm + PHA10 ppm vẫn chưa triệt để so với hỗn hợp formalin và green malachite trong 10 ngày điều trị nhưng kết quả điều trị bước đầu đã hạn chế rất lớn tỷ lệ chết của cá, giảm cường độ nhiễm tới mức thấp, tạo điều kiện và thời gian để cá có những đáp ứng miễn dịch chống lại mầm bệnh và giúp cá hồi phục hoàn toàn sau 20 ngày.
>> Nghiên cứu chưa được thử nghiệm ở các mô hình nuôi khác nhau, tuy nhiên trong thời điểm này có thể sử dụng hỗn hợp formalin 25 ppm + PHA10 ppm để điều trị bệnh trùng quả dưa thay thế cho green malachite ít nhất là trong các bể ương nuôi giống thủy sản, bể cá cảnh.
Source: Kim Tiến, Theo Khoa Thủy sản, Khoa Thú y - Học viện Nông Nghiệp Việt Nam
Cách nào giúp cá tra duy trì đà xuất khẩu tăng?
Sau chuỗi ngày sụt giảm liên tiếp vì dịch bệnh, gần đây xuất khẩu cá tra của Việt Nam đã tăng trưởng dương trở lại. Tuy vậy chặng đường phía trước của con cá tra vẫn còn nhiều thách thức cần giải quyết. Ông Trương Đình Hòe - Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) đã trao đổi với phóng viên Báo Công Thương xung quanh vấn đề này.
09/03/2021 | 5365 người đọc
Kì vọng nuôi tôm nước lợ năm 2021
Ngành nuôi trồng thủy sản nói chung cũng như những người nuôi tôm nói riêng đã và đang kì vọng vào vụ tôm năm 2021 đạt về năng suất lẫn chất lượng.
09/03/2021 | 6159 người đọc
Phương pháp ủ rơm khô bằng urê
Ủ rơm với urê (kiềm hóa rơm) là phương pháp rất đơn giản, dễ làm, phù hợp với trình độ của người dân; Giúp cải thiện chất lượng dinh dưỡng, khắc phục một phần tình trạng thiếu thức ăn cho trâu, bò trong vụ Đông - Xuân và những ngày giá rét kéo dài
03/03/2021 | 8393 người đọc
Ứng dụng công nghệ cấy truyền phôi bò sữa
Công nghệ cấy truyền phôi đã được ứng dụng và phát triển ở nước ta giúp tạo nên những bước tiến lớn trong sản xuất giống bò sữa. Không những cải tạo đàn bò ở Việt Nam về số lượng mà còn cả năng suất và chất lượng
02/03/2021 | 11248 người đọc
Yêu cầu chuồng trại cho bò sữa
Xây dựng chuồng trại đúng kỹ thuật không chỉ thuận tiện cho việc quản lý, chăm sóc mà còn giúp đảm bảo sức khỏe bò sữa, tăng chất lượng sữa.
01/03/2021 | 7385 người đọc
Nhu cầu tiêu thụ thủy sản được dự báo sẽ hồi phục mạnh mẽ
Với kỳ vọng mức độ ảnh hưởng của dịch COVID-19 sẽ giảm dần và sự hỗ trợ của các Hiệp định thương mại tự do, giới phân tích cho rằng, các kênh tiêu thụ chính của các sản phẩm thủy sản sẽ dần hoạt động trở lại, hỗ trợ đà tăng trưởng cho lĩnh vực này trong năm 2021.
27/02/2021 | 5344 người đọc
Công nghệ thụ tinh nhân tạo cho gà
Thụ tinh nhân tạo đang là phương pháp được nhiều nông hộ chăn nuôi gà trên cả nước áp dụng. Công nghệ thụ tinh nhân tạo giúp giảm chi phí chăn nuôi tới 7%, giảm số trống sử dụng từ 8 - 10 lần. Không những thế còn tăng tỷ lệ phôi và tỷ lệ nở của trứng gà hơn 20%.
26/02/2021 | 15436 người đọc
Ra vườn hái 4 loại cây cỏ phòng trị bệnh cho cá nước ngọt
Hiện nay tình trạng lạm dụng thuốc kháng sinh trong việc điều trị bệnh trên động vật thuỷ sản ngày càng trở nên phức tạp đã dẫn đến sự xuất hiện của xu hướng sử dụng thảo dược trong việc điều trị bệnh cho thuỷ sản ngày càng cao nhằm mục đích giải quyết tình trạng kháng thuốc, vệ sinh an toàn thực phẩm và sức khoẻ cho con người mà các hệ thống nuôi trồng thuỷ sản đã và đang phải đối mặt.
26/02/2021 | 6423 người đọc