Mật độ "VÀNG" khi ương cá tra từ giai đoạn bột lên giống

logo
EN

Mật độ "VÀNG" khi ương cá tra từ giai đoạn bột lên giống
Ngày đăng: 13/10/2020 9317 Lượt xem

    Nuôi cá tra thâm canh ở Đồng bằng sông Cửu Long đã trở thành một nghề sản xuất hàng hóa lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân trong vùng, với kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng qua các năm. Mặc dù vậy, chất lượng con giống vẫn là vấn đề gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bền vững của ngành.

    Cá tra hiện là mặt hàng cá thịt trắng nuôi chiếm vị trí quan trọng thứ hai

    Trên thế giới, cá tra hiện là mặt hàng cá thịt trắng nuôi chiếm vị trí quan trọng thứ hai. Tại Việt Nam, đây là nhóm ngành thủy sản xuất khẩu chiến lược. Ngành công nghiệp cá tra đã tạo công ăn việc làm cho hàng trăm nghìn lao động, đồng thời góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả vùng.

    Song hiện trạng kỹ thuật và tình hình bệnh trong ao ương giống cá tra cho thấy:  tỷ lệ sống của cá tra ương đến 30 ngày tuổi là 18,2%, đến 90 ngày tuổi thì tỷ lệ này chỉ còn 11,1%. Chất lượng con giống thấp đã dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn cung cấp cho người nuôi cá thịt.

    Nguyên nhân làm giảm tỷ lệ sống trong ương cá giống

    Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra, có nhiều nguyên nhân tác động làm giảm tỷ lệ sống của cá trong quá trình ương như: nguồn thức ăn tự nhiên ưa thích của cá, chất lượng nguồn nước, mật độ ương và chất lượng đàn cá bố mẹ.

    Thức ăn tự nhiên là động vật phù du có vai trò rất quan trọng trong ương cá, nhất là từ giai đoạn bột lên hương. Sự thiếu hụt loại thức ăn này là nguyên nhân chính làm cho cá có tỷ lệ sống sót thấp ở cả môi trường tự nhiên và nhân tạo.

    Từ năm 2013 - 2017, Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC - thuộc BK Holding - Đại học Bách Khoa Hà Nội) đã cùng WWF-VN, WWF-Áo và VASEP thực hiện dự án “Xây dựng chuỗi cung ứng cá tra bền vững tại Việt Nam - SUPA” do Liên minh châu Âu tài trợ nhằm nâng cao giá trị, giảm giá thành, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, phát triển bền vững cá tra Việt Nam. Trong đó có nghiên cứu nhằm tìm ra mật độ ương và loại thức ăn tự nhiên ban đầu thích hợp cho cá tra khi ương từ giai đoạn bột lên giống, góp phần nâng cao tỷ lệ sống cũng như chất lượng của đàn cá giống.

    Nghiên cứu này được tiến hành tại khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ, Trung tâm ứng dụng KHCN của Công ty Caseamex (Vĩnh Long) và trại cá Phú Thuận của Công ty Thuận Hưng (Hậu Giang), trong thời gian từ tháng 2 - 6/2015. Thí nghiệm thực hiện tại 9 ao ương có diện tích 1.500m2, với 3 mật độ khác nhau là 600, 800, 1.000 con/m2, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Cá thí nghiệm được sinh sản nhân tạo với chiều dài trung bình ban đầu là 0,5 cm/con. 

    Trong ao ương cá tra từ giai đoạn bột lên hương ở cả 3 mật độ ương, thành phần thực vật nổi bao gồm các ngành tảo lục, tảo khuê, tảo lam, và tảo mắt. Trong đó, tảo lục luôn chiếm tỷ lệ cao nhất về thành phần loài, với 21 loài được tìm thấy chiếm tỉ lệ 88% ở mật độ 600 con/m2, ở mật độ 800 con/m2 có 18 loài chiếm tỉ lệ 84% và 20 loài chiếm tỉ lệ 79% ở mật độ còn lại.

    Thành phần động vật nổi bao gồm các nhóm ngành chủ yếu như Rotifera, Cladocera, Copepoda và Protozoa. Đặc biệt, ngành Rotifer luôn chiếm tỉ lệ cao nhất ở cả 3 mật độ, với 15 loài được tìm thấy chiếm tỉ lệ 79% ở mật độ 600 con/m2, ở mật độ 800 con/m2 có 14 loài chiếm tỉ lệ 74% và 13 loài chiếm tỉ lệ 70% ở mật độ còn lại. Các nhóm động vật nổi còn lại có số loài thấp hơn và biến động từ 1-7 loài chiếm tỉ lệ từ 3 - 39%.

    Kết quả về tăng trưởng của cá khi thực hiện ương trong ao đất cho thấy: sau 120 ngày ương từ bột lên giống thì cá giống ở mật độ 600 con/m2 có tốc độ tăng trưởng cao nhất (0,28 g/ngày), với khối lượng trung bình đạt 33,66 g/con, có tốc độ tăng trưởng thấp nhất (0,17 g/con) ở mật độ 1.000 con/m2, với khối lượng trung bình là 20,89 g/con sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) giữa các nghiệm thức. Về tỉ lệ sống ở các mật độ cũng thể hiện sự khác biệt thống kê với giá trị P<0,05, trong đó, mật độ 1.000 con/m2 có tỉ lệ sống thấp nhất là 8%, mật độ 600 con/m2 có tỉ lệ sống cao nhất 19% và ở mật độ 800 con/m2 là 16%.

    Theo đó, khi áp dụng đúng quy trình kỹ thuật và ương cá với mật độ 600 con/m2 lợi nhuận thu được là trên 2 triệu đồng, tương đương với mức sinh lời là khoảng 1.200 đồng/kg cá giống. Trong khi ở 2 mật độ còn lại lợi nhuận đều có giá trị âm và âm nhiều nhất là ở mật độ 1.000 con/m2 (gần 13 triệu đồng).

    Điều này có thể được giải thích là do khi nuôi ở mật độ thấp sẽ dễ dàng quản lý đàn cá trong ao nuôi, duy trì được chất lượng nước tốt, là điều kiện tạo nguồn thức ăn tự nhiên ban đầu dồi dào và ổn định, cá có nhiều cơ hội để tìm gặp các loại thức ăn ưa thích mà chúng chọn lựa và đặc biệt là giảm cạnh tranh môi trường sống với nhau.

    Nguồn VASEP

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Khan hiếm sản vật miền Tây ngay giữa mùa nước nổi

    Khan hiếm sản vật miền Tây ngay giữa mùa nước nổi

    Đồng bằng sông Cửu Long không còn lũ, những sản vật và đặc sản mùa nước nổi cũng trở nên khan hiếm, đến mức có tiền chưa chắc mua được.
    08/10/2020
    Nuôi tôm công nghệ cao: Hướng đi mới trước thách thức biến đổi khí hậu

    Nuôi tôm công nghệ cao: Hướng đi mới trước thách thức biến đổi khí hậu

    Tỉnh Kiên Giang đang triển khai thực hiện đề án ứng dụng công nghệ cao, tiết kiệm nước vào nuôi tôm công nghiệp theo hướng VietGAP.
    07/10/2020
    Quảng Ninh đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản công nghệ cao

    Quảng Ninh đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản công nghệ cao

    Những năm gần đây, tỉnh Quảng Ninh đã dành nhiều nguồn lực phát triển ngành nuôi trồng thủy sản.
    07/10/2020
    Vĩnh Long: 9 tháng đầu năm, diện tích nuôi tăng nhưng sản lượng nuôi giảm

    Vĩnh Long: 9 tháng đầu năm, diện tích nuôi tăng nhưng sản lượng nuôi giảm

    Trong 9 tháng đầu năm, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm các loài thủy đặc sản gia tăng, giá thương phẩm các loại thủy đặc sản (lươn, baba, ếch, cá chạch lấu) tăng ổn định, người nuôi có lãi khá nên người nuôi tại Vĩnh Long đã mở rộng diện tích nuôi.
    05/10/2020
    Kích thích phản ứng miễn dịch của tôm thẻ bằng nấm men

    Kích thích phản ứng miễn dịch của tôm thẻ bằng nấm men

    Yarrowia lipolytica là một loại nấm men hiếu khí, lưỡng hình, không gây bệnh, nó có thể được phân lập từ sữa chua, môi trường biển và tôm.
    05/10/2020
    Vai trò của Enterococcus spp trong nuôi trồng thủy sản

    Vai trò của Enterococcus spp trong nuôi trồng thủy sản

    Bài viết tổng hợp những nghiên cứu về vai trò của Enterococcus spp trong nuôi trồng thủy sản hay cụ thể hơn là các nghiên cứu về công dụng của chủng Enterococcus spp trong nuôi cá.
    05/10/2020
    Hấp dẫn nơi thủ phủ tôm

    Hấp dẫn nơi thủ phủ tôm

    Về Bạc Liêu, nghĩ tới thủ phủ tôm. Vùng đất tuyệt vời như lời vọng cổ: “Bên nước mặn biển cho muối nhiều. Bên nước ngọt phù sa vun bồi". Những lĩnh vực trụ cột thu hút đầu tư
    01/10/2020
    Vaccine trên tôm: Từ vô lý đến hy vọng!

    Vaccine trên tôm: Từ vô lý đến hy vọng!

    Do không có trí nhớ miễn dịch nên ý tưởng Vaccine trên tôm vẫn được xem là không hiệu quả. Tuy nhiên, nếu làm được thì vaccine trên tôm sẽ từ ý nghĩ vô lý thành điều đáng hy vọng nhất với ngành tôm.
    28/09/2020
    Long An: Nuôi tôm công nghệ cao trong bể trên cạn, sau gần 3 tháng bắt được 4 tấn

    Long An: Nuôi tôm công nghệ cao trong bể trên cạn, sau gần 3 tháng bắt được 4 tấn

    Nông dân tham quan mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao của ông Vũ Hồng Hải, ấp 2, xã Phước Vĩnh Tây, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An
    28/09/2020
    Cải thiện mô hình nuôi cá rô phi ao đất bằng zeolit

    Cải thiện mô hình nuôi cá rô phi ao đất bằng zeolit

    Sử dụng zeolit trong ao nuôi cá giúp cải thiện chất lượng nước, tăng trưởng và tình trạng sức khỏe của cá rô phi trong ao đất.
    28/09/2020
    Xử lý bọt trắng trong ao nuôi tôm

    Xử lý bọt trắng trong ao nuôi tôm

    Ao tôm xuất hiện nhiều bọt trắng lâu tan khi quạt là do nước ao có nhiều chất cặn lơ lửng như xác tảo tàn, chất hữu cơ từ thức ăn dư thừa, tảo, vi khuẩn dạng sợi, hạt đất và các hạt rắn lơ lửng khác.
    25/09/2020
    Acid hữu cơ trong nuôi trồng thủy sản

    Acid hữu cơ trong nuôi trồng thủy sản

    Acid hữu cơ và muối của chúng được sử dụng như là chất phụ gia trong thức ăn dùng cho động vật thủy sản
    24/09/2020
    Zalo
    Hotline