Thay thế green malachite trong điều trị trùng quả dưa

logo
EN

Thay thế green malachite trong điều trị trùng quả dưa
Ngày đăng: 07/07/2020 16057 Lượt xem

    image

    Trước đây, green malachite được kết hợp với formalin dùng để điều trị bệnh trùng quả dưa và cho hiệu quả điều trị cao. Tuy nhiên, hóa chất thường tồn dư lâu trong cơ thể động vật làm ảnh hưởng đến máu, tế bào gan. Hiện, Bộ NN&PTNN đã cấm sử dụng hóa chất này, vì vậy, cần có giải pháp để thay thế green malachite trong điều trị bệnh trùng quả dưa.

    Phương pháp nghiên cứu

    Thu mẫu trùng quả dưa: Mẫu cá trắm cỏ nhiễm bệnh trùng quả dưa được đưa về phòng thí nghiệm, trùng quả dưa giai đoạn trùng trưởng thành (trophonts) được thu từ nhớt da của cá, và giữ ở nhiệt độ phòng trong 36 - 48 giờ, ấu trùng (theronts) nở ra sẽ được pha loãng để thu mẫu chứa dao động 5.000 - 7.500 theronts/ml.

    Thu mẫu cá thí nghiệm: Các mẫu cá trắm cỏ sạch bệnh được thu gom từ các ao cá khỏe mạnh, kiểm tra kỹ không nhiễm trùng quả dưa và bất kỳ loài ký sinh trùng nào khác trước khi gây nhiễm. Cá được cho thích nghi với môi trường bể ương trong phòng thí nghiệm 48 giờ trước khi tiến hành thí nghiệm.

    image

    Phương pháp: Hóa chất được sử dụng gồm formalin đậm đặc (38%) và hỗn hợp PHA bao gồm 3 loại hóa chất có tính ôxy hóa gồm axit paracetic 15%, hydrogen peroxide (H2O2) 25% và  axit acetic 25%. Pha chế thử nghiệm các công thức sau: Formalin 25 ppm (F25) kết hợp với hỗn hợp PHA ở các nồng độ 1, 3, 5, 7 và 10 ppm (PHA1, PHA3, PHA5, PHA7 và PHA10).

    Bố trí thí nghiệm

    Thí nghiệm in vitro (đối với ấu trùng)

    Sử dụng đĩa nuôi cấy có 24 lỗ để chứa 20 - 30 µl dung dịch mẫu ấu trùng (200 - 250 ấu trùng). Sau đó, bổ sung các hỗn hợp hóa chất đã pha chế sẵn đủ 1 ml/lỗ và đạt các nồng độ cần thử nghiệm để tiến hành xử lý ấu trùng, trong đó có lỗ đối chứng không sử dụng hóa chất. Mỗi công thức điều trị được lặp lại 4 lần. Đĩa được giữ ở nhiệt độ 25oC và quan sát hiệu quả xử lý dưới kính hiển vi sau các khoảng thời gian xử lý khác nhau: 0, 1, 12, 24 và 48 giờ. Các ấu trùng bị chết được xác định là những ấu trùng không còn khả năng di động và bị biến đổi về mặt cấu trúc. Ấu trùng trong các lỗ được đếm từ trái sang phải, từ trên xuống theo mô tả của Xu et al. (2002).

    Thí nghiệm in vivo (đối với trùng trưởng thành)

    Thí nghiệm được tiến hành trong 21 bể (cỡ 40x50x60 cm), mỗi bể thí nghiệm chứa 40 lít nước. Sử dụng thiết bị cung cấp nhiệt để duy trì nhiệt độ nước ở mức 25 + 0,20C trong suốt thời gian thí nghiệm. Mỗi bể được bố trí 30 cá trắm cỏ hương (cỡ 4 + 0,24 g/con).

    Các lô thí nghiệm, cá được gây nhiễm với 5 ml dung dịch nhớt chứa trùng quả dưa giai đoạn ấu trùng. Theo Ventura và Paperna (1985), trùng quả dưa mất khoảng 48 - 72 giờ để tìm, ký sinh lên da, mang cá và trở thành trùng trưởng thành, do vậy thử nghiệm sẽ được tiến hành sau 72 giờ gây nhiễm. Các lô cá được xử lý bằng hỗn hợp formalin 25 ppm và PHA ở các nồng độ 1, 3, 5, 7 và 10 ppm. Thời gian mỗi lần ngâm kéo dài 24 giờ, sau đó toàn bộ nước được thay hoàn toàn, cá được ngâm nhắc lại sau mỗi 2 ngày và lặp lại 5 lần. Trong khi đó, đồng thời gây nhiễm và điều trị song song 1 lô cá gây nhiễm bằng formalin + green malachite để tiện so sánh hiệu quả của 2 thử nghiệm.

    Ngoài ra, thí nghiệm có thêm các lô đối chứng 1 (ĐC1) là bể được gây nhiễm nhưng không điều trị và đối chứng 2 (ĐC2) là bể cá không gây nhiễm và không điều trị. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần, điều kiện bể nuôi, chế độ cho ăn, chất lượng nước ở các lô được đảm bảo không có sự khác biệt và trong quá trình điều trị các bể đều được sục khí liên tục. Số lượng cá sống được ghi chép từng ngày, quá trình điều trị kết thúc sau 10 ngày, một nửa số cá ở các lô thí nghiệm và lô đối chứng được kiểm tra cường độ nhiễm và tỷ lệ nhiễm trung bình, số cá còn lại tiếp tục nuôi thêm 10 ngày và kiểm tra khả năng hồi phục của cá sau điều trị.

    Kết quả thí nghiệm

    Thử nghiệm in vitro: Kết quả điều trị bằng hỗn hợp formalin và PHA có tác dụng tốt trong quá trình xử lý ấu trùng, số lượng ấu trùng còn khả năng di chuyển và có hình thái bình thường giảm đi đáng kể theo thời gian. Tỷ lệ ấu trùng bị tiêu diệt không còn khả năng di chuyển và bị biến đổi về mặt cấu trúc cao nhất ở liệu trình điều trị F25 + PHA5-10, tỷ lệ chết 94 - 96,5% sau 48 giờ điều trị thử nghiệm.

    Thử nghiệm in vivo: Được chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 là thời gian điều trị bằng các hỗn hợp hóa chất, giai đoạn 2 là giai đoạn theo dõi hồi phục và khả năng tự sinh miễn dịch chống lại trùng quả dưa của cá trắm cỏ. Kết quả cho thấy, hỗn hợp formalin 25 ppm + PHA10 ppm cho kết quả xử lý tốt nhất. Tỷ lệ sống của cá lây nhiễm cao, đạt 92,23%.

    Như vậy, những trùng quả dưa còn sót lại ở lô đã được điều trị F25 + PHA10 trong vòng 10 ngày đầu ở giai đoạn 1 có thể hoặc không còn khả năng sinh sản do tác dụng của hỗn hợp điều trị hoặc bị tác động từ hệ thống miễn dịch của cơ thể dẫn đến chết và không tái nhiễm trên cá. Tuy nhiên, cần có những nghiên cứu chuyên sâu về miễn dịch của cá với thời gian theo dõi dài hơn để làm rõ vấn đề này.

    Mặc dù, hiệu quả xử lý trùng quả dưa của formalin 25 ppm + PHA10 ppm vẫn chưa triệt để so với hỗn hợp formalin và green malachite trong 10 ngày điều trị nhưng kết quả điều trị bước đầu đã hạn chế rất lớn tỷ lệ chết của cá, giảm cường độ nhiễm tới mức thấp, tạo điều kiện và thời gian để cá có những đáp ứng miễn dịch chống lại mầm bệnh và giúp cá hồi phục hoàn toàn sau 20 ngày.

    >> Nghiên cứu chưa được thử nghiệm ở các mô hình nuôi khác nhau, tuy nhiên trong thời điểm này có thể sử dụng hỗn hợp formalin 25 ppm + PHA10 ppm để điều trị bệnh trùng quả dưa thay thế cho green malachite ít nhất là trong các bể ương nuôi giống thủy sản, bể cá cảnh.

    Source: Kim Tiến, Theo Khoa Thủy sản, Khoa Thú y - Học viện Nông Nghiệp Việt Nam

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Thủy phân phụ phẩm cá tra làm phân bón hữu cơ

    Thủy phân phụ phẩm cá tra làm phân bón hữu cơ

    Nhằm cung cấp giải pháp xử lý phụ phẩm trong quá trình chế biến thủy sản với chi phí thấp và góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường, Viện Nghiên cứu Công Nghệ Sinh Học và Môi Trường - Đại học Nông lâm TP.HCM đã đưa ra quy trình sản xuất enzyme protease thủy phân phụ phẩm cá tra và cá basa để sản xuất phân bón hữu cơ và thức ăn chăn nuôi.
    07/09/2020
    3 bệnh nấm nghiêm trọng trên cá rô phi

    3 bệnh nấm nghiêm trọng trên cá rô phi

    Sự phát triển nhanh chóng của ngành nuôi trồng thủy sản nước ngọt nên nhiều bệnh nấm trên cá đã xuất hiện. Cá rô phi bị đe dọa bởi nhiều bệnh khác nhau, trong đó có 3 loại nấm gây tử vong là: Saprolegnia spp., Ichthyophonus spp., và Branchiomyces spp. Bệnh xảy ra do điều kiện sống kém, tức là chất lượng nước xấu hoặc mật độ nuôi cao.
    05/09/2020
    Mối quan hệ của Phân trắng, EHP và Hoại tử gan tụy cấp tính

    Mối quan hệ của Phân trắng, EHP và Hoại tử gan tụy cấp tính

    Cả đường ruột và gan tụy, hai cơ quan quan trọng nhất của tôm đều bị nhiễm bệnh cùng một lúc thì chẳng khác nào là ao tôm nuôi đã “lâm vào đường cùng”. Do đó, cần làm tốt công tác giữ sạch môi tường nuôi, nuôi tôm một cách an toàn bền vững, diệt khuẩn, thay nước thường xuyên để ngăn chặn sự sinh sôi của mầm bệnh trong ao. Đồng thời bổ sung nhiều dưỡng chất để cải thiện sức khỏe tôm, hỗ trợ hoạt động của hệ miễn dịch sẽ giúp tôm mạnh mẽ mà “đương đầu” với những dịch bệnh nguy hiểm.
    05/09/2020
    Tiềm năng từ mô hình nuôi ruồi lính đen kết hợp chăn nuôi

    Tiềm năng từ mô hình nuôi ruồi lính đen kết hợp chăn nuôi

    Với kỹ thuật đơn giản, tiết kiệm chi phí, mô hình nuôi ruồi lính đen được đánh giá có lợi ích thiết thực cho môi trường, đảm bảo an toàn với vật nuôi và sức khỏe con người. Nhận thấy được những ưu điểm này, anh Lê Phước Sang - chủ hộ kinh doanh trang trại nông nghiệp sinh thái Ecodota (thị trấn Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp) đã triển khai mô hình nuôi ruồi lính đen kết hợp chăn nuôi trang trại, tạo thu nhập và góp phần bảo vệ môi trường...
    03/09/2020
    Bắc Ninh: Nghề nuôi trồng thủy sản ngày càng phát triển

    Bắc Ninh: Nghề nuôi trồng thủy sản ngày càng phát triển

    Được đánh giá là nhiều tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi lồng bè do hệ thống sông ngòi phong phú, mấy năm nay, tỉnh Bắc Ninh đã phát huy tốt thế mạnh. Thủy sản trở thành một lĩnh vực quan trọng trong ngành nông nghiệp của tỉnh.
    03/09/2020
    Hướng dẫn nuôi trồng thủy sản đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm

    Hướng dẫn nuôi trồng thủy sản đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm

    Để đảm bảo chất lượng ATVSTP đối với các sản phẩm thủy sản, Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Cà Mau khuyến cáo bà con nuôi trồng thủy sản
    01/09/2020
    Nhộn nhịp mùa cá “lên” ruộng

    Nhộn nhịp mùa cá “lên” ruộng

    Hiện nay đang là thời điểm người dân vùng lũ ở ĐBSCL tất bật chuẩn bị mua cá giống để thả trong ao hoặc chân ruộng lúa đón lũ. Nhu cầu cá nước ngọt luôn rất cao, người dân liên tục mở rộng diện tích nuôi, vì thế mà các loại cá giống đều rất hút hàng.
    31/08/2020
    Làm mất hiệu lực aflatoxin bởi chất hấp phụ bề mặt

    Làm mất hiệu lực aflatoxin bởi chất hấp phụ bề mặt

    Trong chăn nuôi thì thức ăn đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng. Chăn nuôi thành công, ngoài con giống tốt, chuồng trại phù hợp, điều kiện dịch vụ chăn nuôi – thú y và tiêu thụ sản phẩm thuận lợi, cần có nguồn thức ăn đầy đủ cân bằng và kỹ thuật nuôi dưỡng tốt. Trên thị trường hiện nay có nhiều loại thức ăn tồn tại ở nhiều dạng như viên, bột hoặc trang trại tự phối trộn và nhiều thương hiệu khác nhau, mỗi loại thức ăn cung cấp những chất dinh dưỡng khác nhau dựa trên loại vật nuôi, giai đoạn vật nuôi và mục đích sử dụng khi chăn nuôi.
    31/08/2020
    Hạn chế stress trên tôm

    Hạn chế stress trên tôm

    Trong nuôi tôm, có rất nhiều yếu tố tác động đến quá trình sinh trưởng và phát triển, gây tình trạng stress ở tôm và làm ảnh hưởng đến năng suất vụ nuôi.
    28/08/2020
    H2S - “sát thủ” nơi đáy ao tôm

    H2S - “sát thủ” nơi đáy ao tôm

    Khí độc H2S từ lâu đã được xem như một “sát thủ”, có mối liên hệ mật thiết với DO và pH trong ao tôm.
    26/08/2020
     Enzyme Phytase: Giúp nâng cao hiệu quả nuôi cá tra và giảm thiểu ô nhiễm môi trường

    Enzyme Phytase: Giúp nâng cao hiệu quả nuôi cá tra và giảm thiểu ô nhiễm môi trường

    Với ao nuôi cá tra đạt năng suất 300 tấn/ha/vụ, mỗi vụ sẽ thải ra môi trường khoảng 2.677 tấn bùn ướt và 77.930 m3 nước thải. Lượng chất thải này không chỉ gây ô nhiễm môi trường, suy giảm chất lượng nguồn nước, mà còn phát sinh dịch bệnh, từ đó làm giảm tính bền vững của nghề nuôi cá tra. Vậy đâu là giải pháp cho thực trạng trên?
    25/08/2020

    24/08/2020
    Zalo
    Hotline