Thức ăn tự nhiên trong mô hình tôm-lúa: Đủ hay không?

logo
EN

Thức ăn tự nhiên trong mô hình tôm-lúa: Đủ hay không?
Ngày đăng: 03/08/2020 15086 Lượt xem

    Nuôi tôm lúa

    Tôm - lúa là mô hình được người dân Đồng bằng sông Cửu Long lựa chọn trong điều kiện môi trường biến động như hiên nay.

    Thức ăn tự nhiên có cung cấp đủ nhu cầu dinh dưỡng cho tôm trong mô hình tôm-lúa luân canh không?

    Thực tế cho thấy mô hình nuôi tôm - lúa đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế và sự ổn định cuộc sống cho người dân. Tôm sú và tôm càng xanh thường được nuôi trong môi hình này, với mật độ thấp (1-2 con/m2) và sử dụng nguồn thức ăn tự nhiên trong ruộng lúa. Tôm thường được nuôi suốt năm, do giá trị cao hơn so với gạo mặc dù độ mặn thấp trong mùa mưa không thuận lợi cho nuôi tôm. 

    Nuôi tôm ruộng lúa phụ thuộc chủ yếu vào thức ăn tự nhiên, đặc biệt là động vật đáy đóng vai trò rất quan trọng trong thành công của vụ nuôi. Thức ăn tự nhiên kém chất lượng hoặc thức ăn không đủ là nguyên nhân gây căng thẳng và làm giảm sự tăng trưởng hoặc sự sống của tôm. 

    Macrobenthos (sinh vật đáy cỡ lớn) là nguồn thức ăn trực tiếp cho tôm trong ao nuôi tôm ruộng lúa, trong khi đó sinh khối của chúng lại phụ thuộc vào thực vật phù du (tảo đáy). Sinh vật đáy cỡ lớn là mắc xích quan trọng trong mạng lưới thức ăn, có khả năng lọc sạch nước và làm vật chỉ thị cho môi trường. 

    Nghiên cứu này đã sử dụng chất đánh dấu đồng vị 15N để theo dõi thức ăn tự nhiên trong ao nuôi tôm ruộng lúa. Kết quả cho thấy có rất ít sự liên kết của đồng vị 15N vào trầm tích, chứng tỏ sự phát triển chậm của tảo đáy đặc biệt là sự chậm tăng trưởng của các sinh vật đáy cỡ lớn. Nhờ chất đánh dấu đồng vị 15N đã phát hiện 60% hoặc nhiều hơn số tôm không có thức ăn trong đường ruột nhất là vào mưa. Giải thích cho điều này có thể là: nguồn thức ăn tự nhiên không đủ cung cấp cho tôm hoặc tôm bị căng thẳng do chất lượng nước kém.

    Sự chuyển đổi mùa khô sang mùa mưa sẽ đi kèm với sự thay đổi sinh khối và thành phần sinh vật tự nhiên trong ao như: tảo đáy, sinh vật đáy cỡ lớn, thực vật phù du, động vật phù du (được tôm tiêu thụ trực tiếp hoặc gián tiếp). Nhiều loài tảo và sinh vật đáy không thích nghi với sự biến đổi của độ mặn, do đó mật độ của các loài trong ao có thể giảm khi mùa mưa xảy ra. Điều kiện môi trường dưới mức tối ưu đã gián tiếp gây ra rủi ro cho tôm thông qua tác động lên mạng lưới thức ăn tự nhiên, đặc biệt là sự ảnh hưởng các loài tảo - cơ sở hình thành mạng lưới thức ăn. Thật vậy, một nghiên cứu đã cho thấy một cộng đồng tảo đáy phát triển chậm, mặc dù có đủ nitơ, phốt pho và ánh sáng. Giảm độ mặn trong mùa mưa cũng có thể làm giảm nồng độ carbon vô cơ dạng hòa tan (DIC) trong ao, góp phần làm giảm sinh khối tảo đáy. 

    Cùng với những thay đổi trong sinh khối tảo đáy, cũng có những thay đổi về mật độ của một số loài tảo trong nước ao theo mùa để phù hợp với sự thay đổi của độ mặn. Đáng chú ý, tảo mắt là loài chiếm ưu thế trong suốt thời gian nghiên cứu, điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tôm. Tảo mắt chiếm ưu thế khi chất hữu cơ cao, do khả năng dinh dưỡng dị dưỡng chúng sẽ ăn vi khuẩn và các loại tảo nhỏ khác, cũng như đồng hóa các chất dinh dưỡng hữu cơ và carbon do đó có thể cạnh tranh thức ăn với tôm. 

    Tốc độ tăng trưởng của tôm sú trong suốt quá trinh sinh trưởng ở những ao này thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng trong các ao thâm canh. Điều này có thể thấy dinh dưỡng trong môi hình nuôi ruộng lúa không đủ cho nhu cầu của tôm. Chất lượng nước kém cũng được xác định là một yếu tố rủi ro cho việc nuôi tôm kết hợp với lúa, với nồng độ oxy hòa tan, nhiệt độ nước và độ mặn dưới mức tối ưu. Các điều kiện dưới mức tối ưu có thể gây căng thẳng về mặt sinh lý cho tôm, do đó có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự tăng trưởng của chúng và làm tăng tính dễ bị bệnh.

    Tóm lại, nguồn thức ăn tự nhiên trong ao không đủ cho nhu cầu của tôm, đặc biệt là vào mùa mưa và do đó cần phải xem xét việc bổ sung thức ăn công nghiệp chất lượng cao để cải thiện tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống. Việc bổ sung thức ăn công nghiệp cần phải thận trọng vì việc sử dụng quá mức có thể làm trầm trọng thêm các vấn đề về chất lượng nước như: DO thấp, chất hữa cơ quá nhiều gây nguy hiểm cho hệ sinh thái ao. Chúng ta cũng có thể lắp đặt các thiết bị sục khí chi phí thấp để giảm bớt một phần căng thẳng cho tôm.

    Nguồn Sương Phạm - Tép Bạc

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
     Mô hình chuẩn nuôi heo sử dụng đệm lót sinh học

    Mô hình chuẩn nuôi heo sử dụng đệm lót sinh học

    Theo Cục Chăn nuôi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay, tỉnh Hà Nam đang đứng đầu cả nước về số lượng mô hình chăn nuôi gia súc gia cầm trên đệm lót sinh học.
    29/07/2020
    Để tôm không thiếu chất khi dùng bột xương thịt

    Để tôm không thiếu chất khi dùng bột xương thịt

    Nguồn protein bền vững từ bột xương thịt hoàn toàn có thể thay thế cho bột cá, cộng thêm tỏi sẽ gia tăng sức khỏe và sức đề kháng cho tôm thẻ.
    29/07/2020
    Nông dân khấp khởi mùa vụ mới

    Nông dân khấp khởi mùa vụ mới

    Dù có khó khăn, nông dân vẫn đặt nhiều hy vọng vào vụ mùa mới
    28/07/2020
    Lên men thức ăn cho tôm thẻ chân trắng

    Lên men thức ăn cho tôm thẻ chân trắng

    Thức ăn lên men bằng hỗn hợp vi khuẩn kích thích sự phát triển, tăng khả năng miễn dịch của tôm thẻ chân trắng.
    28/07/2020
    Cá tra Việt Nam vẫn “kẹt” thị trường xuất khẩu

    Cá tra Việt Nam vẫn “kẹt” thị trường xuất khẩu

    Theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP), khủng hoảng kinh tế do đại dịch Covid-19 vẫn chưa kết thúc, đây là một trong những nguyên nhân lớn tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu cá tra tại nhiều thị trường lớn trên thế giới.
    27/07/2020
    Vì sao RAS vẫn thất bại?

    Vì sao RAS vẫn thất bại?

    Nói đến tương lai ngành nuôi trồng thủy sản thì RAS chính là sự lựa chọn tất yếu, nhưng dù đã có từ lâu, RAS vẫn chưa được phát triển rộng rãi và tập trung đầu tư.
    24/07/2020
    Xử lý hiệu quả nước thải nuôi thủy sản bằng tập đoàn vi khuẩn

    Xử lý hiệu quả nước thải nuôi thủy sản bằng tập đoàn vi khuẩn

    Xử lý khí độc NH4+ và NO2 trong nước thải thủy sản nhờ tập đoàn vi khuẩn : Bacillus cereus, Bacillus amyloliquefaciens và Pseudomonas stutzeri.
    20/07/2020
    Giá thịt heo khó về “trạng thái bình thường”

    Giá thịt heo khó về “trạng thái bình thường”

    Loạt chính sách khuyến khích từ nhập khẩu thịt đông lạnh đến nhập khẩu heo sống, song giá heo hơi cuối tuần qua có dấu hiệu tăng trở lại.
    17/07/2020
    Tách chiết collagen từ da cá tra: Lọc triệu đô từ ‘phế phẩm’

    Tách chiết collagen từ da cá tra: Lọc triệu đô từ ‘phế phẩm’

    Trước khi có phương pháp tách chiết và tinh chế collagen từ da cá tra, 70% trọng lượng thân cá trong đó có da sau khi được file lọc thịt thường được bán rất rẻ hoặc bỏ đi gây ô nhiễm môi trường.
    17/07/2020
    Phương pháp xử lý nước nhiễm phèn nặng

    Phương pháp xử lý nước nhiễm phèn nặng

    Nước nhiễm phèn khiến tôm, cá còi cọc, chậm lớn, tỷ lệ sống thấp, gây thiệt hại nghiêm trọng về năng suất cũng như chất lượng đầu ra của vật nuôi. Chính vì vậy, việc xử lý phèn trong ao nuôi là vấn đề cấp thiết.
    17/07/2020
    Công nghệ nano trong nuôi trồng thủy sản

    Công nghệ nano trong nuôi trồng thủy sản

    Công nghệ nano - Hướng đi mới để ngành nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững.
    17/07/2020
    Nguồn gốc chất thải hữu cơ và tác hại trong ao nuôi tôm

    Nguồn gốc chất thải hữu cơ và tác hại trong ao nuôi tôm

    Xử lý chất thải hữu cơ trong ao nuôi tôm luôn là vấn đề đau đầu và bức thiết của người nuôi hiện nay. Bài viết cung cấp nguồn gốc chất thải hữu cơ và tác hại và biện pháp xử lý trong nuôi tôm.
    17/07/2020
    Zalo
    Hotline