Các bệnh phổ biến trong ương cá tra và biện pháp phòng ngừa

logo
EN

Các bệnh phổ biến trong ương cá tra và biện pháp phòng ngừa
Ngày đăng: 19/11/2020 15248 Lượt xem

    cá tra giống

    Sự thâm canh cá tra đã dẫn đến bùng phát dịch bệnh trên diện rộng và tỷ lệ tử vong cao.

    Ương cá tra chủ yếu gặp phải các bệnh truyền nhiễm, ít khi mắc đơn lẻ mà đồng nhiễm nhiều bệnh cùng lúc dẫn đến tỷ lệ tử vong cao.

    Sự thâm canh của ngành cá tra đã dẫn đến bùng phát dịch bệnh trên diện rộng và tỷ lệ tử vong cao ở cả giai đoạn ương và nuôi. Các phương pháp quản lý sức khỏe cá nuôi hiện tại không đủ khả năng để giảm thiểu hoặc kiểm soát mức độ phổ biến của bệnh, dẫn đến phúc lợi cá, năng suất hoặc hiệu quả dưới mức tối ưu. 

    Các bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất trong nuôi cá tra là: bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri (75%), bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila (60%), bệnh ký sinh trùng (48%), bệnh nấm saprolegniasis (19%), hội chứng gan và mang nhợt nhạt (17%), thối đuôi (14%) và bệnh trương bóng hơi (3%).

    Hầu hết nông dân cho biết có nhiều bệnh xảy ra cùng một lúc trong quá trình nuôi, thường gặp nhất là “bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri và bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila”, “bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri và bệnh ký sinh trùng”, “bệnh ký sinh trùng và bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila” và“ bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri, bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila và bệnh ký sinh trùng”. Sự đồng nhiễm có thể dẫn đến tử vong cao hơn so với nhiễm đơn lẻ, do đó điều quan trọng là phải nhận biết được sự đồng nhiễm. Điều này đã được chứng minh trong một thử nghiệm tỷ lệ tử vong cao hơn đáng kể ở những cá tiếp xúc với vi khuẩn (E. ictaluri) và sau đó bị nhiễm ký sinh trùng Ichthyophthirius multifiliis (71,1%) so với các trường hợp chỉ nhiễm E. ictaluri đơn lẻ (26,7%) hoặc I. multifiliis chỉ là (28,9%).

    A: ao ương cá tra ở ĐBSCL; B: trùng bánh xe Trichodina trong mang cá; C: nhiễm trùng huyết do vi khuẩn Aeromonas: xuất huyết; D: bệnh thối đuôi: mảng trắng trên da; E: BNP: đốm trắng trên gan và lá lách; F: hội chứng mang và gan nhợt nhạt của cá bị nhiễm bệnh.

    Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng Trichodina ở cả ba giai đoạn ương là: 41,8% ở ấu trùng (0-20 ngày), 41,6% ở cá bột (21-30 ngày) và 58,7% ở cá giống (40-90 ngày). Nghiên cứu này đã phát hiện một tỷ lệ nhiễm cao vi khuẩn E. ictaluri (44,4% ở ấu trùng, 40% ở cá con và 35% ở cá giống) và A. hydrophila (11,1% ở ấu trùng, 30% ở cá bột và 30% ở cá giống. Vi khuẩn Flavobacterium columnare (gây bệnh trắng đuôi) được quan sát thấy ở cá giống với tỷ lệ 10% và không được quan sát thấy ở các giai đoạn ương khác.

    Các trường hợp đồng nhiễm vi khuẩn phổ biến nhất là E. ictaluri và A. hydrophila (16%), E. ictaluri và F. columnare (4%). Các loại nấm bệnh phổ biến nhất được phát hiện là Fusarium spp. (34,5% ở ấu trùng, 51,4% ở cá bột, và 47,7% ở cá giống) và Aspergillus spp. (43,6% ở ấu trùng, 32,4% ở cá bột và 41,5% ở cá giống).

    Đề xuất một hướng đi để giảm tỷ lệ mắc bệnh không phải đơn giản. Động lực để nông dân điều chỉnh và tiếp nhận các công nghệ mới là một quá trình phức tạp, nhưng nghiên cứu này cho thấy rằng việc cải thiện các phương pháp hiện tại của nông dân cũng có thể làm giảm tỷ lệ mắc bệnh.

    Thứ nhất, giảm thời gian giữa việc cho nước vào ao và thả cá sẽ làm giảm nguy cơ mắc bệnh ký sinh trùng. Việc này có ảnh hưởng đến cá ngay sau khi thả giống vì người nuôi đã quan sát thấy hầu hết bệnh ký sinh trùng ở giai đoạn ấu trùng vì vậy đó là thời điểm ảnh hưởng nhiều nhất. Cần có thêm nghiên cứu để xác định lý do tại sao thả một thời gian dài lại làm gia tăng bệnh ký sinh trùng, để các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, có thể nhắm vào chất lượng nước hoặc vi sinh vật trong nước có thể gây ra hậu quả này.

    Thứ hai, tăng số ngày giữa khi thả cá và bắt đầu tập ăn thức ăn công nghiệp là biện pháp bảo vệ chống lại cả bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri và bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila. Khả năng ăn thức ăn công thức của cá phụ thuộc vào khả năng tiêu hóa và sự phát triển cơ thể của chúng. Chính vì thế thước đo tốt hơn để bắt đầu cho ăn thức ăn công nghiệp là kích thước của cá. Ngụ ý rằng, thời gian cho ăn thức ăn công nghiệp lâu hơn thì cơ hội dương tính với bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri của chúng càng thấp. Bắt đầu tập ăn thức ăn công nghiệp ảnh hưởng đến bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri và bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila  bởi vì bệnh khởi phát chủ yếu ở giai đoạn cá bột (21-30 ngày sau khi thả), do đó nông dân có thể bắt đầu tập ăn thức ăn công nghiệp trung bình 18 ngày sau khi thả.

    Thứ ba, tháo bùn ao để ngăn ngừa bệnh ký sinh trùng. Bùn chứa thức ăn thừa và phân từ vụ trước, cần ngăn sự phát triển cũng như loại bỏ được kí sinh trùng thông qua việc tháo bùn. Mặt khác, bùn có chứa nhiều khoáng chất và chất dinh dưỡng, nhưng cũng có thể chứa dư lượng hóa chất được sử dụng trong các vụ trước, do đó hoạt động thải bùn trên sông được coi là chất gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, điều này có thể được giảm thiểu bằng cách ủ bùn, vì vậy tháo bùn đáy ao vẫn là phương pháp hiệu quả, dễ thực hiện và ít tác động đến môi trường khi bùn đã được xử lý.

    Thứ tư, sử dụng iốt để khử trùng nước sẽ bảo vệ cá với bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri. Iốt được biết đến với đặc tính kháng khuẩn. Đó có thể là lý do mà việc điều trị phòng ngừa bằng i-ốt có liên quan đến tỷ lệ bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri thấp hơn trong khảo sát này. 

    Ngoài các biện pháp phòng ngừa hiện đang được nông dân sử dụng, các biện pháp phòng ngừa mới đang xuất hiện như sử dụng hệ thống tuần hoàn để nuôi cá tra. Các hệ thống này sẽ cung cấp một mức độ kiểm soát tiên tiến mà các hệ thống ao nuôi hiện tại không có được. Tuy nhiên, những mô hình này đòi hỏi một khoản đầu tư lớn mà các cơ sở nuôi nhỏ ít đáp ứng được. Có những phát triển mới liên quan đến các biện pháp phòng ngừa đối với các bệnh cụ thể, ví dụ như tiêm chủng và chọn lọc di truyền để giảm thiểu bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri. Hiện nay, có hai chương trình nhân giống cá tra được thành lập tại Việt Nam được thực hiện song song, một chương trình nhằm cải thiện tốc độ tăng trưởng và chương trình còn lại nhằm nâng cao sức đề kháng cho bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri.

    Kết quả khảo sát này cho thấy rằng việc kéo dài thời gian tập ăn thức ăn công nghiệp, sử dụng iốt để xử lý nước, thoát bùn ao và giảm thời gian giữa việc đổ nước vào ao và thả cá có tác dụng bảo vệ đáng kể về mặt thống kê đối với bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri, bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila hoặc bệnh ký sinh trùng. Do đó sủ dụng cùng lúc bốn phương pháp phòng ngừa này có thể có lợi giảm gánh nặng dịch bệnh trong ương cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long.

    Nguồn Tép Bạc

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Điều kiện lên men acid lactic tối ưu từ mật rỉ đường

    Điều kiện lên men acid lactic tối ưu từ mật rỉ đường

    Một trong những nhóm vi khuẩn có lợi được quan tâm nhiều nhất là nhóm vi khuẩn lactic, đây là nhóm vi khuẩn lên men chua đã được con người sử dụng từ rất lâu.
    23/10/2020
    5 mô hình nuôi tôm tiên tiến khả thi hiện nay

    5 mô hình nuôi tôm tiên tiến khả thi hiện nay

    Nghề nuôi tôm trên thế giới có nhiều công nghệ nuôi tôm tiên tiến đang được áp dụng khá phổ biến như: Copefloc, công nghệ BioSipec, công nghệ nuôi tôm mới sử dụng hoàn toàn bằng thức ăn tự nhiên; công nghệ nuôi tôm sử dụng thức ăn có nguồn gốc từ thực vật lên men; nuôi tôm theo qui trình 3 pha (three-phase) trong ao; nuôi tôm raceway siêu thâm canh nhiều tầng (super-intensive stacked raceway); Biofloc trong nuôi tôm siêu thâm canh; Semi-biofloc trong nuôi tôm thâm canh, ương nuôi tôm siêu thâm canh trong hệ thống nước chảy (raceway); nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kính.
    17/08/2020
    Lá ổi – Cây nhà lá vườn giúp cá giải độc thuốc trừ sâu

    Lá ổi – Cây nhà lá vườn giúp cá giải độc thuốc trừ sâu

    Trong số các chất kích thích miễn dịch được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản, thảo dược là xu hướng hiện nay vì chúng thân thiện với môi trường, hiệu quả về kinh tế, ít tác dụng phụ nên được dùng trong phòng ngừa và điều trị bệnh cho cá.
    31/07/2020
    Nghiên cứu chế biến và sử dụng rong mơ làm thức ăn chăn nuôi

    Nghiên cứu chế biến và sử dụng rong mơ làm thức ăn chăn nuôi

    Rong Mơ rất giàu các chất dinh dưỡng như vitamin nhóm B, vitamin C, nhóm carotenid và các khoáng chất như canxi, natri, magie, kali và đặc biệt hàm lượng các nguyên tố khoáng vi lượng rất cần thiết cho cơ thể người, động vật như iod, sắt, coban… rất cao, đặc biệt thích hợp cho động vật trong giai đoạn sinh trưởng, sinh sản, ngoài ra rong Mơ còn chứa nhiều hoạt chất sinh học quý khác.
    27/07/2020
    Nuôi tôm trong ao nổi: Bước tiến mới trong nghề nuôi tôm

    Nuôi tôm trong ao nổi: Bước tiến mới trong nghề nuôi tôm

    Thay vì nuôi tôm bằng ao đất, ao đất trải bạt, một số người nuôi tôm ở TX Hoài Nhơn và TP Quy Nhơn (tỉnh Bình Định) đã mạnh dạn đầu tư mô hình nuôi tôm bằng ao nổi xây gạch, đúc bê tông xi măng kiên cố, có trải bạt. Cách nuôi này giúp kiểm soát tốt dịch bệnh tôm, tăng mật độ thả nuôi, đạt hiệu quả kinh tế cao.
    24/07/2020
    Vi tảo - nguồn protein phù hợp cho bò sữa

    Vi tảo - nguồn protein phù hợp cho bò sữa

    Các nghiên cứu mới đây trên bò sữa đã chứng minh sử dụng vi tảo như một nguồn thức ăn chứa protein không gây ra bất cứ hạn chế sinh học hoặc sinh lý học nào cho bò sữa trong các hệ chăn nuôi quy mô lớn.
    24/07/2020
    Thu nhập tốt nhờ nuôi bò sinh sản kết hợp bò vỗ béo

    Thu nhập tốt nhờ nuôi bò sinh sản kết hợp bò vỗ béo

    Trong vài năm trở lại đây, bò thịt trở thành vật nuôi mang lại nguồn thu nhập chính của nhiều bà con tại các địa phương trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Bên cạnh nuôi bò sinh sản bán bê con thì người chăn nuôi còn phát triển thêm hình thức nuôi bò vỗ béo cho hiệu quả kinh tế cao.
    24/07/2020
    Xuất khẩu tôm 'ngược dòng' mùa dịch

    Xuất khẩu tôm 'ngược dòng' mùa dịch

    6 tháng đầu năm nay, xuất khẩu tôm đạt 1,5 tỷ USD, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm ngoái, theo VASEP.
    24/07/2020
    Mật độ và kích cỡ phiêu sinh vật quyết định tỉ lệ sống cá tra bột

    Mật độ và kích cỡ phiêu sinh vật quyết định tỉ lệ sống cá tra bột

    Mật độ và kích cỡ phiêu sinh vật làm thức ăn ban đầu có ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của cá tra bột.
    23/07/2020
    Cá giống vào mùa kinh doanh

    Cá giống vào mùa kinh doanh

    Thời điểm này, dù chưa bước vào mùa lũ nhưng sức mua nhiều loại cá giống trên thị trường đã bắt đầu tăng mạnh.
    22/07/2020
    Chống nóng cho gà mùa hè

    Chống nóng cho gà mùa hè

    (Người Chăn Nuôi) - Để đàn gà được khỏe mạnh qua những đợt nắng nóng, người chăn nuôi cần có các biện pháp chống nóng thích hợp ngay từ ban đầu.
    22/07/2020
    Các phản ứng miễn dịch của tôm thẻ khi nhiệt độ thay đổi đột ngột

    Các phản ứng miễn dịch của tôm thẻ khi nhiệt độ thay đổi đột ngột

    Hệ thống phòng thủ của tôm sẽ có cơ chế tự chữa lành vết thương gây ra khi nhiệt độ môi trường bị thay đổi đột ngột.
    22/07/2020
    Zalo
    Hotline