Những “cú hích” trong phát triển NTTS VN dưới cái nhìn của một người trong cuộc-Phần 2

logo
EN

Những “cú hích” trong phát triển NTTS VN dưới cái nhìn của một người trong cuộc-Phần 2
Ngày đăng: 15/04/2021 6122 Lượt xem

    ao nuôi tôm

    Sau khi được cấp phép nuôi vào năm 2008, tôm chân trắng nhanh chóng vực dậy nghề nuôi tôm nước lợ.

    Tôm sú và tôm chân trắng

    Nuôi tôm nước lợ ban đầu là các hệ thống nuôi quảng canh trong rừng ngập mặn vào thập niên 1970s với con giống tự nhiên là tôm bạc thẻ/tôm chuối (Penaeus (Fenneropenaeus) merguiensis), tôm thẻ Ấn Độ (P. (Fenneropenaeus) indicus), tôm bạc đất/tôm rảo (Metapenaeus ensis),... Trước năm 1975, khách du lịch đến Vũng Tàu có thể thấy những “đầm” (còn gọi là “đùn”) nuôi tôm quảng canh ở vùng Phước Cơ, được cho là của bà Trần Lệ Xuân.

    Đầu thập niên 1980s, nhiều nông trường “nuôi tôm” quốc doanh được thành lập, đặc biệt ở huyện Duyên Hải (nay là huyện Cần Giờ) của Thành phố Hồ Chí Minh. Trong khoảng thời gian này, để gia tăng nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, Tổng công ty SEAPRODEX thành lập Xí nghiệp NTTS Phước Cơ với nhiệm vụ nuôi tôm theo mô hình quảng canh. Do nguồn giống tự nhiên ngày càng giảm sút, xí nghiệp đã mời 1 chuyên gia người Nhật sang chuyển giao công nghệ sản xuất giống nhân tạo tôm bạc thẻ với kỹ thuật “cắt mắt” để kích thích sự thành thục sinh dục của tôm mẹ. Với việc bổ sung con giống tôm bạc thẻ nhân tạo, nuôi tôm ở nước ta đã được nâng lên thành trình độ “quảng canh cải tiến”. Tuy nhiên, việc nuôi tôm bạc thẻ với con giống nhân tạo gặp một trở ngại là khi tôm đạt kích cỡ 11-12 g/con thì ngừng sinh trưởng (trong khi tôm tự nhiên có thể đạt >20 g/con) và hao hụt dần. 

    tôm thẻ

    Với việc bổ sung con giống tôm bạc thẻ nhân tạo, nuôi tôm ở nước ta đã được “nâng cấp” dần. 

    Các nước có nuôi tôm biển ở Châu Á như Thái Lan, Philippines,… cũng gặp trở ngại này và đã chuyển sang nuôi một đối tượng mới là tôm sú (Penaeus monodon). Một sự may mắn là ở Việt Nam, tôm sú bố mẹ cũng được tìm thấy ở các vùng biển miền Trung. Năm 1985, nhóm nghiên cứu của Bảo tàng Biển Nha Trang (tiền thân của Viện Hải dương học ngày nay) đã thành công trong sản xuất giống nhân tạo tôm sú với kỹ thuật cắt mắt tôm mẹ từ tôm bố mẹ đánh bắt từ tự nhiên. Công nghệ sản xuất giống tôm sú được lan truyền và thúc đẩy sự thành lập nhiều trại giống tôm sú tư nhân ở miền Trung. Con giống tôm sú nhân tạo cũng đã thúc đẩy sự phát triển các hệ thống nuôi tôm nước lợ “quảng canh cải tiến” vào những năm đầu của thập niên 1990s. Với việc “copy” guồng quạt nước – thông qua các tham quan học tập (study tour), và sử dụng thức ăn viên nhập từ Thái Lan, nuôi tôm sú đã phát triển lên các trình độ bán thâm canh và thâm canh từ giữa thập niên 1990s. 

    Từ giữa thập niên 1990s, nuôi tôm sú đã phát triển lên các trình độ bán thâm canh và thâm canh. 

    Từ năm 1994, nuôi tôm nước lợ ở nước ta bắt đầu đối diện với dịch bệnh đốm trắng (white spot disease, WSD) với mức độ thiệt hại ngày càng tăng. Nghề nuôi tôm của Thái Lan, “đối thủ” cạnh tranh của Việt Nam về nuôi và xuất khẩu tôm sú, cũng chịu thiệt hại nặng nề do bệnh gây ra bởi vi-rút như đốm trắng (white spot syndrome virus, WSSV) và đầu vàng (yellow head virus, YHV). Từ năm 1998, nuôi tôm ở Thái Lan đã chuyển dần sang đối tượng tôm chân trắng (Penaeus (Litopenaeus) vannamei) sử dụng con giống không mang hay kháng mầm bệnh chuyên biệt (specific pathogen free, SPF hay specific pathogen resistant, SPR). Nuôi tôm chân trắng đã giúp Thái Lan dần khôi phục và gia tăng sản lượng tôm nuôi sau đó. Tôm chân trắng đã được Công ty Duyên Hải Bạc Liêu nhập và nuôi thử nghiệm vào giữa thập niên 1990s. Tuy nhiên, do lo sợ tôm chân trắng có thể mang mầm bệnh Taura (Taura syndrome virus, TVS) - gây bệnh phổ biến trên tôm chân trắng được nuôi ở nhiều nước Nam Mỹ, lây cho tôm sú nên đối tượng này bị cấm nhập và nuôi ở Việt Nam. Đầu thập niên 2000s, khi nghề nuôi tôm sú bị thiệt hại nặng nề và liên tục do bệnh đốm trắng, tôm chân trắng mới được phép nuôi thử nghiệm ở miền Trung. Sau đó, đối tượng này được phép nuôi trong cả nước vào năm 2008. Nuôi tôm chân trắng đã nhanh chóng “hồi phục” nghề nuôi tôm nước lợ của Việt Nam. Trong hơn 5 năm qua, sản lượng và giá trị xuất khẩu của tôm chân trắng đã dần vượt xa tôm sú.

    Tôm càng xanh

    Nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) trong mương vườn với con giống tự nhiên cũng là hoạt động thủy sản lâu đời của người dân vùng ĐBSCL. Việt Nam là nước có sản lượng khai thác tôm càng xanh tự nhiên cao nhất ở Đông Nam Á. Trước năm 1980, sản lượng tôm càng xanh khai thác tự nhiên của Việt Nam khoảng 7.000-11.000 T/năm, Campuchia 100-200 T/năm, Malaysia 120 T/năm, Thái Lan 400-500 T/năm. Có lẽ do có tiềm năng nuôi tôm càng xanh lớn nên một Hội nghị quốc tế về Nuôi tôm càng xanh (International Conference on Prawn Farming) do Ủy ban Kinh tế và Xã hội cho Châu Á và Thái Bình Dương – Liên Hiệp Quốc (Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, ESCAP - UN) tài trợ được tổ chức tại Vũng Tàu từ ngày 31/3 đến 4/4/1975 với sự tham gia của nhiều nhà khoa học trên thế giới. Do nguồn lợi tôm càng xanh bị giảm sút nhanh chóng nên những nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo đã bắt đầu từ những năm 1976-1977. Tuy nhiên, phải đến đầu thập niên 1990s, Trung tâm sản xuất tôm Vũng Tàu (cơ sở được tài trợ của chính phủ Úc, tiền thân của Trung tâm quốc gia giống hải sản Nam bộ - Viện 2) mới cho ra những con giống tôm càng xanh nhân tạo đầu tiên với qui trình ương ấu trùng trong môi trường nước trong (kín và hở). Qui trình này khó áp dụng ở những trại giống nhỏ/gia đình. Đầu thập niên 2000s, KTS-ĐHCT đã nghiên cứu thành công qui trình ương ấu trùng tôm càng xanh trong môi trường nước xanh hở - cải tiến. Qui trình đã được áp dụng bởi nhiều trại giống và từ đó thúc đẩy sự phát triển mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa ở ĐBSCL.

    Nuôi tôm càng xanh trong mương vườn với con giống tự nhiên cũng là hoạt động thủy sản lâu đời của người dân vùng ĐBSCL.

    Trong tự nhiên, tôm càng xanh đực thường có tốc độ sinh trưởng và kích thước lớn hơn tôm cái. Tốc độ sinh trưởng tôm càng xanh bị cái chậm lại do các hoạt động sinh sản và ấp trứng diễn ra liên tục sau khi thành thục sinh dục lần đầu. Trong điều kiện nuôi tôm càng đực (chiếm khoảng 40% số lượng cá thể của đàn tôm) có hiện tượng “phân cỡ” gồm 3 dạng trưởng thành: Càng xanh (kích thước càng lớn nhất và tăng trưởng tương đối chậm, tỉ lệ khoảng 10-20% số lượng tôm đực), càng cam/lửa (kích thước càng nhỏ hơn và tăng trưởng nhanh, tỉ lệ khoảng 34-47%) và tôm nhỏ (kích thước càng rất nhỏ và tăng trưởng chậm, tỉ lệ khoảng 33-57%). Các tôm đực sẽ trải qua một loạt thay đồi về hình thái từ tôm nhỏ đến tôm càng cam và tôm càng xanh. Vì vậy, trong nuôi tôm càng xanh, người nuôi phải thường xuyên tiến hành thu tỉa tôm càng cam và tôm càng xanh lớn để tôm nhỏ phát triển. Hoạt động này tốn thời gian và lao động. Vào đầu thập niên 1990s, Tiến sĩ Amir Sagi – giáo sư của ĐH Ben-Gurion (the Negev, Israel) đã phát triển thành công kỹ thuật vi phẫu để loại bỏ tuyến phát sinh tính đực (androgenic gland) trên tôm càng xanh đực để cho ra ‘con cái mới’ (neo-female) có nhiễm sắc thể giới tính là ZZ (con cái bình thường có nhiễm sắc thể giới tính là WZ). Con cái mới khi được cho sinh sản với con đực sẽ cho ra đàn tôm càng xanh toàn đực giới tính (ZZ). Kỹ thuật vi phẫu để loại bỏ tuyến phát sinh tính đực sau đó được chuyển giao cho Viện 2 vào năm 2004, và từ đây kỹ thuật này được chuyển giao cho các địa phương. Mặc dầu kỹ thuật vi phẫu có nhiều hạn chế so với kỹ thuật ngày nay là “vô hiệu hóa gen (gene silencing) điều khiển tuyến IAG (insulin-like androgenic gland)” bằng phương pháp “RNA can thiệp” (RNA interference, RNAi) để tạo con cái mới, việc sản xuất giống toàn đực ngày ấy đã thúc đẩy sự phát triển nghề nuôi tôm càng xanh trong ao, ruộng lúa vùng ngập lũ ở nhiều địa phương ĐBSCL như An Giang, Đồng Tháp,… cho đến hôm nay.

    Kết luận

    Mặc dầu đã có nhiều bài viết giới thiệu về các tiến bộ khoa học và kỹ thuật trong quá trình phát triển của NTTS Việt Nam, bài viết này chỉ nhằm tổng hợp và cung cấp thêm thông tin về những giải pháp kỹ thuật đã có tác động thúc đẩy sự phát triển đó với những đối tượng nuôi quan trọng ở những thời điểm khác nhau. Rất tiếc do thiếu tư liệu nên bài viết này đã không thể đề cập đến những “cú hích” như di nhập và cho sinh sản cá chép Trung Quốc [mè trắng (H. molitrix), mè hoa (H. nobilis) và trắm cỏ (C. idella)], di nhập cá chép (C. carpio) Hungary và sản xuất cá chép lai V1, cá cảnh,… NTTS nước ta có được vị thế như ngày hôm nay là do sự đóng góp của rất nhiều người ở các vị trí công tác và hoạt động khác nhau; trong đó có những đóng góp đã được vinh danh nhưng cũng còn nhiều đóng góp mãi mãi vẫn là “thầm lặng”. Đối với tác giả, tất cả những đóng góp đó, dù lớn hay nhỏ, đều đáng trân trọng như nhau nên bài viết đã không nêu tên cụ thể một cá nhân nào. Một số thông tin trong bài viết này có thể chưa thật chính xác, rất mong nhận được sự bổ sung và góp ý của các chuyên gia trong ngành.

    Nguồn Tép Bạc

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Chiết xuất cam, quýt cải thiện sức khỏe đường ruột của heo con

    Chiết xuất cam, quýt cải thiện sức khỏe đường ruột của heo con

    Một nghiên cứu đã đánh giá hiệu quả của chiết xuất cam, quýt thay thế cho kháng sinh trong chế độ ăn của heo con. Kết quả chỉ ra rằng, chiết xuất cam, quýt làm tăng nồng độ axit amin thiết yếu trong huyết tương, cải thiện hình thái đường ruột và hoạt động của enzyme tiêu hóa.
    10/03/2021
    Cách nào giúp cá tra duy trì đà xuất khẩu tăng?

    Cách nào giúp cá tra duy trì đà xuất khẩu tăng?

    Sau chuỗi ngày sụt giảm liên tiếp vì dịch bệnh, gần đây xuất khẩu cá tra của Việt Nam đã tăng trưởng dương trở lại. Tuy vậy chặng đường phía trước của con cá tra vẫn còn nhiều thách thức cần giải quyết. Ông Trương Đình Hòe - Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) đã trao đổi với phóng viên Báo Công Thương xung quanh vấn đề này.
    09/03/2021
    Kì vọng nuôi tôm nước lợ năm 2021

    Kì vọng nuôi tôm nước lợ năm 2021

    Ngành nuôi trồng thủy sản nói chung cũng như những người nuôi tôm nói riêng đã và đang kì vọng vào vụ tôm năm 2021 đạt về năng suất lẫn chất lượng.
    09/03/2021
    Phương pháp ủ rơm khô bằng urê

    Phương pháp ủ rơm khô bằng urê

    Ủ rơm với urê (kiềm hóa rơm) là phương pháp rất đơn giản, dễ làm, phù hợp với trình độ của người dân; Giúp cải thiện chất lượng dinh dưỡng, khắc phục một phần tình trạng thiếu thức ăn cho trâu, bò trong vụ Đông - Xuân và những ngày giá rét kéo dài
    03/03/2021
    Ứng dụng công nghệ cấy truyền phôi bò sữa

    Ứng dụng công nghệ cấy truyền phôi bò sữa

    Công nghệ cấy truyền phôi đã được ứng dụng và phát triển ở nước ta giúp tạo nên những bước tiến lớn trong sản xuất giống bò sữa. Không những cải tạo đàn bò ở Việt Nam về số lượng mà còn cả năng suất và chất lượng
    02/03/2021
    Yêu cầu chuồng trại cho bò sữa

    Yêu cầu chuồng trại cho bò sữa

    Xây dựng chuồng trại đúng kỹ thuật không chỉ thuận tiện cho việc quản lý, chăm sóc mà còn giúp đảm bảo sức khỏe bò sữa, tăng chất lượng sữa.
    01/03/2021
    Nhu cầu tiêu thụ thủy sản được dự báo sẽ hồi phục mạnh mẽ

    Nhu cầu tiêu thụ thủy sản được dự báo sẽ hồi phục mạnh mẽ

    Với kỳ vọng mức độ ảnh hưởng của dịch COVID-19 sẽ giảm dần và sự hỗ trợ của các Hiệp định thương mại tự do, giới phân tích cho rằng, các kênh tiêu thụ chính của các sản phẩm thủy sản sẽ dần hoạt động trở lại, hỗ trợ đà tăng trưởng cho lĩnh vực này trong năm 2021.
    27/02/2021
    Công nghệ thụ tinh nhân tạo cho gà

    Công nghệ thụ tinh nhân tạo cho gà

    Thụ tinh nhân tạo đang là phương pháp được nhiều nông hộ chăn nuôi gà trên cả nước áp dụng. Công nghệ thụ tinh nhân tạo giúp giảm chi phí chăn nuôi tới 7%, giảm số trống sử dụng từ 8 - 10 lần. Không những thế còn tăng tỷ lệ phôi và tỷ lệ nở của trứng gà hơn 20%.
    26/02/2021
    Ra vườn hái 4 loại cây cỏ phòng trị bệnh cho cá nước ngọt

    Ra vườn hái 4 loại cây cỏ phòng trị bệnh cho cá nước ngọt

    Hiện nay tình trạng lạm dụng thuốc kháng sinh trong việc điều trị bệnh trên động vật thuỷ sản ngày càng trở nên phức tạp đã dẫn đến sự xuất hiện của xu hướng sử dụng thảo dược trong việc điều trị bệnh cho thuỷ sản ngày càng cao nhằm mục đích giải quyết tình trạng kháng thuốc, vệ sinh an toàn thực phẩm và sức khoẻ cho con người mà các hệ thống nuôi trồng thuỷ sản đã và đang phải đối mặt.
    26/02/2021
    Bổ sung vitamin E và vitamin C trên tôm thẻ

    Bổ sung vitamin E và vitamin C trên tôm thẻ

    Một nghiên cứu mới đây của Hajar Ebadi và cộng sự 2020 đã cho thấy tác động tương tác của lipid trong khẩu phần ăn đến vitamin E và vitamin C khi bổ sung vào chế độ ăn để của tôm thẻ chân trắng.
    26/02/2021
    Triển vọng ngành chăn nuôi 2021

    Triển vọng ngành chăn nuôi 2021

    Trải qua một năm 2020 nhiều biến động, thị trường các sản phẩm protein toàn cầu năm 2021 có nguy cơ đối mặt nhiều rủi ro tiềm ẩn nhưng cũng sẵn sàng đón nhận cơ hội mới.
    22/02/2021
    Khô cải Carinata: Nguồn protein bền vững mới

    Khô cải Carinata: Nguồn protein bền vững mới

    Với nguồn cung bền vững, khô cải carinata được coi là một nguồn protein mới để sản xuất thức ăn chăn nuôi.
    17/02/2021
    Zalo
    Hotline