Tiềm năng sử dụng côn trùng làm thức ăn chăn nuôi

logo
EN

Tiềm năng sử dụng côn trùng làm thức ăn chăn nuôi
Ngày đăng: 28/10/2020 9874 Lượt xem

    Sử dụng côn trùng làm thức ăn chăn nuôi ngày càng phát triển trên thế giới và là hướng đi có nhiều tiềm năng ở Việt Nam.

    Giá trị dinh dưỡng

    Các loại côn trùng có hàm lượng protein thô cao (42,1 - 63,3% theo vật chất khô) và tương đương hoặc cao hơn nhiều so với nhiều loại thức ăn chăn nuôi giàu protein khác như bột cá, khô đậu tương.

    Côn trùng có chứa đầy đủ các axit amin, đặc biệt là các axit amin thiết yếu với hàm lượng tương đối cao. Trong các loại hạt ngũ cốc thường thiếu một số loại axit amin thiết yếu như lysine, threonine hay tryptophan, nhưng hàm lượng các loài axit amin này đều có trong côn trùng, nhất là lysine và threonine hàm lượng tương đối cao.

    Không những giàu protein, côn trùng còn được xem là thức ăn giàu chất béo, nhất là ấu trùng ruồi lính đen. Đặc biệt, côn trùng giàu các axit béo không no mạch dài và các axit béo cần thiết như axit linoleic và axit alpha-linolenic.

    Về hàm lượng các chất khoáng, côn trùng được đánh giá là thức ăn rất giàu sắt và kẽm. Hơn nữa, hàm lượng các chất khoáng rất biến động giữa các loài và thay đổi theo giai đoạn phát triển của côn trùng. Ngoài ra, hàm lượng các chất khoáng còn phụ thuộc vào việc sử dụng một phần hay toàn bộ cơ thể của côn trùng để làm thức ăn.

     

    Côn trùng là nguồn thức ăn giàu protein cho vật nuôi - Ảnh: IMF

    Một số loài côn trùng

    Ấu trùng ruồi lính đen (Hermetia illucens): Ruồi lính đen (H. illucens Linnaeus 1758) thuộc họ ruồi đen (Stratiomyidae) có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và nơi có nhiệt độ ấm thuộc châu Mỹ. Về đặc điểm ngoại hình, ruồi lính đen trưởng thành có màu đen, hình dạng cơ thể giống con tò vò và có chiều dài cơ thể là 15 - 20 mm, có thể lên đến 27 mm, chiều rộng là 6 mm, và nặng tới 220 mg vào giai đoạn cuối của ấu trùng (Makkar & cs., 2014).

    Ruồi lính đen trưởng thành thường không ăn thức ăn (mà chủ yếu phụ thuộc vào lượng chất béo dự trữ ở giai đoạn ấu trùng) và không mang các mầm bệnh (Makkar & cs., 2014). Ruồi trưởng thành cũng không bị thu hút bởi nơi ở của con người hay các loại thực phẩm và cũng được coi là loài không gây hại (van Huis & cs., 2013). Vì vậy, ấu trùng ruồi lính đen rất phù hợp để phân hủy các loại chất thải hữu cơ và tạo ra nguồn protein có thể sử dụng làm thức ăn chăn nuôi.

    Sâu bột mealworm (Tenebrio molitor): Sâu bột mealworm là ấu trùng của hai loại bọ cánh cứng màu đen (darkling beetles) thuộc họ Tenebrionidae là loài bọ màu vàng (T. molitor Linnaeus, 1758) và loại nhỏ hơn, ít phổ biến hơn là loại bọ nhỏ màu đen (Tenebrio obscures Fabricus, 1972). Sâu bột thuần chủng có ở châu Âu và hiện nay phân bố ở nhiều nơi trên trái đất (Makkar & cs., 2014).

    Sâu bột thường rất dễ nhân giống và dễ nuôi, với hàm lượng protein cao nên chúng thường được nuôi để làm thức ăn cho động vật cảnh, bao gồm các loài chim, bò sát, động vật nhỏ có vú, lưỡng cư và cá. Do loài ăn tạp nên sâu bột có khả năng chuyển hóa các loại chất thải, nhất là phụ phẩm từ cây trồng và tạo nguồn thức ăn giàu protein, giàu chất béo và năng lượng trong một thời gian tương đối ngắn.

    Nhộng tằm (silk worm): Theo tác giả Makkar & cs. (2014) có một số loài nhộng tằm đã được phát hiện, bao gồm: Bombyx mori Linnaeus, 1758 (Bom bycidae), Antheraea assamensis Helfer, 1837; Antheraea mylitta (Drury, 1773); Antheraea paphia Linnaeus, 1758; Samia cynthia ricini (Saturniidae). Tằm là một dạng sâu của bướm được nuôi để sản xuất tơ.

    Bột nhộng tằm được coi là nguồn thức ăn phù hợp với loài dạ dày đơn (như gia cầm, heo, cá) và cũng có thể cho gia súc nhai lại. Do tằm thường được nuôi để lấy tơ nên một lượng lớn phụ phẩm kén thải ra có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy, sử dụng nguồn phụ phẩm kén này làm thức ăn chăn nuôi hoặc sản xuất các sản phẩm có giá trị sinh học khác như: chitin, protein, dầu và axit béo là biện pháp giúp giảm ô nhiễm môi trường.

     

    Phương pháp chế biến

    Côn trùng có thể được sử dụng ở dạng tươi (sống) hoặc qua chế biến làm thức ăn chăn nuôi. Một số dạng sản phẩm côn trùng được chế biến hiện nay như sấy đông khô, dạng bột khô hoặc đông đá. Chế biến sẽ giúp bảo quản côn trùng được lâu hơn và dễ sử dụng hơn. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn có rất ít công trình công bố về các phương pháp chế biến côn trùng làm thức ăn chăn nuôi (Veldkamp & cs., 2012).

    Sau khi thu hoạch côn trùng từ chất nền, cần tiến hành làm sạch để loại bỏ hết các chất thải bám vào chúng. Thông thường nhất là biện pháp sử dụng sàng để tách côn trùng ra khỏi chất nền. Sau đó côn trùng được chế biến nguyên con hoặc tách một phần cơ thể chúng. Khi sử dụng nguyên con, có thể tiến hành đông đá hoặc luộc trong nước sôi. Ví dụ, ấu trùng ruồi có thể được rửa sạch bằng nước nóng (40 - 500C) sau đó sấy trong 24 giờ ở 600C hoặc với ấu trùng sâu bột có thể sấy ở 500C trong 3 ngày (Gawaad & Brune, 1979; Ramos-Elorduy & cs., 2002, dẫn theo Veldkamp & cs., 2012).

    Đối với phương pháp phân tách, sau khi thu hoạch, sơ chế làm sạch thì có thể thực hiện phân tách mỡ, protein hòa tan, protein không hòa tan và chitin. Khi tách mỡ thì hàm lượng protein sẽ cao hơn. Có thể sử dụng các chất hòa tan hữu cơ (như hexane) để tách mỡ rồi sấy khô. Để phân tách chitin, có thể sử dụng hóa chất  (NaOH và NaCl) để khử khoáng rồi khử proteim, hoặc sử dụng biện pháp sinh học là lên men hoặc enzyme. Hiện, các phương pháp phân tách protein vẫn chưa được nghiên cứu nhiều (Veldkamp & cs., 2012).

    Tiềm năng

    Đến nay có 24 loài côn trùng thuộc 6 bộ khác nhau (Blattodea, Coleoptera, Diptera, Isoptera, Lepidoptera và Orthoptera) đã được đánh giá có tiềm năng sử dụng thức ăn chăn nuôi, trong đó bộ Diptera (48%) và Lepidoptera (29%) là hai bộ được sử dụng phổ biến nhất, trong khi bộ Coleoptera chỉ chiếm 9%. Theo van Huis & cs. (2013), các loài côn trùng được sử dụng phổ biến nhất làm thức ăn chăn nuôi hiện nay là ấu trùng ruồi lính đen, ấu trùng ruồi nhà, nhộng tằm và sâu bột. Châu chấu và mối cũng là nguồn thức ăn giàu protein rất khả thi cho chăn nuôi nhưng ít phổ biến hơn.

    Côn trùng đã và đang được sử dụng làm thức ăn cho gia súc gia cầm, thủy sản và động vật cảnh ở nhiều nước trên thế giới. Theo Tổ chức Côn trùng học quốc tế (IPIFF) (2019) côn trùng có thể được sử dụng tới 40% trong khẩu phần của cá và tới 30% trong khẩu phần ăn của gà. Tuy nhiên, côn trùng hiện nay đang bị cấm sử dụng cho động vật nhai lại ở trên toàn thế giới do nguy cơ truyền lây bệnh ở bò điên (DiGiacomo & Leury, 2019).

    Riêng ở châu Âu, hiện nay côn trùng chưa được phép sử dụng làm thức ăn cho gia cầm và heo do lo ngại dịch bệnh có thể truyền lây khi sử dụng côn trùng nuôi trên chất nền có nguồn gốc động vật (Commission Regulation (EU) No 56/2013, dẫn theo IPIFF, 2019).

    >> Ấu trùng ruồi lính đen, sâu bột, nhộng tằm, châu chấu và dế là những loài được sử dụng phổ biến trong thức ăn chăn nuôi với nhiều tiềm năng về mặt dinh dưỡng. Bổ sung hoặc thay thế (một phần hoặc hoàn toàn) bột cá hoặc bột đậu tương bằng bột côn trùng trong khẩu phần ăn của gia cầm và heo đã cho kết quả tương đương hoặc tốt hơn về năng suất cũng như chất lượng thịt.

     

    Theo Nguoichannuoi.vn - Nguồn Đặng Thúy Nhung, Nguyễn Thị Xuân, Hán Quang Hạnh, Vũ Đình Tôn - Khoa Chăn nuôi, Học viện Nông Nghiệp Việt Nam

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Cậy nhờ vào đâu để vực dậy cá tra Việt?

    Cậy nhờ vào đâu để vực dậy cá tra Việt?

    Theo ước tính của các Infofish trong năm 2019, Việt Nam, Bangladesh, Ấn Độ và Indonesia sản xuất 2,2 triệu tấn trong đó Việt Nam chiếm trên 50% sản lượng. Sau khi Mỹ áp dụng luật chống phá giá lên cá tra Việt Nam vào năm 2002, sản lượng không giảm mà còn gia tăng gấp 8 -10 lần và xuất đến trên 120 quốc gia.
    14/09/2020
    Giá cá tra giống tại nhiều địa phương vùng ĐBSCL đã tăng trở lại

    Giá cá tra giống tại nhiều địa phương vùng ĐBSCL đã tăng trở lại

    Sau một thời gian dài ở mức thấp, giá cá tra giống tại nhiều địa phương vùng ĐBSCL hiện tăng trở lại từ 5.000-6.000 đồng/kg so với cách nay khoảng 2 tuần. Hiện, giá cá tra nguyên liệu tại nhiều địa phương ở mức 17.500-18.200 đồng/kg, nhưng người nuôi vẫn bị lỗ.
    11/09/2020
    Kiểm soát bệnh do Vibrio bằng hỗn hợp acid hữu cơ trên tôm thẻ

    Kiểm soát bệnh do Vibrio bằng hỗn hợp acid hữu cơ trên tôm thẻ

    Vibrio spp. là một trong những bệnh vi khuẩn nghiêm trọng nhất của tôm nuôi với tỷ lệ chết lên đến 100%. Có một số cách kiểm soát bệnh Vibriosis như: sử dụng kháng sinh hay chế phẩm sinh học.
    11/09/2020
    Tỷ phú nuôi tôm công nghệ cao

    Tỷ phú nuôi tôm công nghệ cao

    Theo ông Nguyễn Trường Đại (Đồng Nai), nếu thời tiết thuận lợi, giá bán ổn định khoảng 150 ngàn đồng/kg (loại 20 con/kg), ông thu lợi khoảng 1,5 tỷ đồng.
    11/09/2020
    Tiềm năng phát triển mô hình nuôi cá rô phi đơn tính

    Tiềm năng phát triển mô hình nuôi cá rô phi đơn tính

    Trong những năm qua, nghề nuôi trồng thủy sản tại tỉnh Sóc Trăng phát triển ổn định về diện tích và có sự tăng dần về năng suất cũng như chất lượng. Bên cạnh con tôm nước lợ, nhiều hộ nuôi còn triển khai đa dạng các đối tượng khác cho hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt là có liên kết bao tiêu ổn định, điển hình như mô hình nuôi cá rô phi đơn tính.
    10/09/2020
    Cám lúa mì lên men nâng cao năng suất của gà thịt

    Cám lúa mì lên men nâng cao năng suất của gà thịt

    Một nghiên cứu ở Đài Loan kết luận rằng, việc bổ sung cám lúa mì lên men ở gà thịt có thể có khả năng nâng cao năng suất tăng trưởng bằng cách cải thiện hệ vi sinh đường ruột và tình trạng viêm nhiễm.
    09/09/2020
    Xuất khẩu cá tra lao dốc: Lỗi không phải chỉ do dịch COVID-19!

    Xuất khẩu cá tra lao dốc: Lỗi không phải chỉ do dịch COVID-19!

    Từ đầu năm đến nay giá cá tra nguyên liệu liên tục lao dốc không phanh xuống mức 17.000 đồng/ kg, thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Nguyên nhân được nêu ra là do dịch bệnh COVID-19 làm gián đoạn hoạt động giao thương. Nhưng, con cá tra đã "rớt" từ lâu trước khi COVID-19 hoành hành.
    09/09/2020
    Chế phẩm vi khuẩn tía quang hợp không lưu huỳnh

    Chế phẩm vi khuẩn tía quang hợp không lưu huỳnh

    Chế phẩm do TS Đỗ Thị Liên và các cộng sự tại Viện Công nghệ sinh học (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) phân lập là nguồn thức ăn mới góp phần đảm bảo chất lượng, số lượng thức ăn cho con giống loài hai mảnh vỏ.
    09/09/2020
    Chủ nuôi tiết lộ sự thật về gà vảy cá “mỹ kê” giá 5 triệu đ/con

    Chủ nuôi tiết lộ sự thật về gà vảy cá “mỹ kê” giá 5 triệu đ/con

    Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp. Tuy nhiên, theo nhiều chủ trang trại nuôi gà vảy cá ở Việt Nam cho biết: Nuôi hay kinh doanh giống gà cảnh này thoạt nghe tưởng “ngon ăn” nhưng không hề dễ dàng.
    08/09/2020
    Cảnh giác với bệnh viêm da nổi cục trên trâu, bò

    Cảnh giác với bệnh viêm da nổi cục trên trâu, bò

    Từ năm 2013 đến nay, bệnh viêm da nổi cục trên trâu, bò đã xảy ra tại các nước trong khu vực Châu Á. Thời gian gần đây, dịch bệnh có chiều hướng gia tăng tại Trung Quốc.Tính đến ngày 27/7/2020, đã phát hiện tổng số 13 ổ dịch tại Trung Quốc; đặc biệt trong khoảng thời gian từ ngày 15-20/7/2020, đã ghi nhận 5 ổ dịch mới tại tỉnh Quảng Tây (cách biên giới với Việt Nam khoảng 200 km)
    08/09/2020
    Đầu tư chiều sâu cho sản phẩm cá tra

    Đầu tư chiều sâu cho sản phẩm cá tra

    Đầu tư chiều sâu cho sản phẩm cá tra là xu hướng tất yếu của các công ty, tập đoàn chuyên nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu hiện nay. Mục đích của việc làm này là đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, khép kín quy trình để chủ động trong sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm.
    08/09/2020
    Thủy phân phụ phẩm cá tra làm phân bón hữu cơ

    Thủy phân phụ phẩm cá tra làm phân bón hữu cơ

    Nhằm cung cấp giải pháp xử lý phụ phẩm trong quá trình chế biến thủy sản với chi phí thấp và góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường, Viện Nghiên cứu Công Nghệ Sinh Học và Môi Trường - Đại học Nông lâm TP.HCM đã đưa ra quy trình sản xuất enzyme protease thủy phân phụ phẩm cá tra và cá basa để sản xuất phân bón hữu cơ và thức ăn chăn nuôi.
    07/09/2020
    Zalo
    Hotline