Vấn Đề Chuẩn Bị Ao Trong Ương Nuôi Cá

logo
EN

Vấn Đề Chuẩn Bị Ao Trong Ương Nuôi Cá
Ngày đăng: 02/03/2021 6223 Lượt xem

    - TS. Nguyễn Văn Triều - Khoa Thủy sản - Đại học Cần Thơ -

          Trong ương nuôi cá, ngoài những vấn đề như chất lượng cá giống, thức ăn, chăm sóc… người nuôi cá cũng cần chú trọng việc chuẩn bị ao. Chuẩn bị ao tốt sẽ tạo được một môi trường nước có chất lượng tốt, ổn định và hạn chế bớt mầm bệnh cho cá nuôi. Đối với ao ương nuôi cá cần phải chuẩn bị trước khi thả cá theo các bước sau: 

    1.  DỌN SẠCH CỎ VÀ CÂY LỚN XUNG QUANH AO 

          Việc này quan trọng đối với những ao ương cá con. Vì ao ương cần đầy đủ ánh sáng mặt trời, tạo điều kiện thuận lợi cho thực vật thủy sinh quang hợp giúp ổn định môi trường và tạo ra nguồn thức ăn tự nhiên ban đầu cho cá. Ao nuôi cá thoáng, không có cây lớn che xung quanh thì việc khuếch tán oxy từ không khí vào nước được dễ dàng hơn, hạn chế bớt tình trạng thiếu oxy cho cá nuôi. Ngoài ra, dọn sạch cây cỏ xung quanh bờ ao cũng góp phần hạn chế sinh vật địch hại gây hại cho cá con.

    2.  BƠM CẠN NƯỚC VÀ VÉT BÙN ĐÁY AO

          Đối với những ao đã được ương nuôi ở vụ trước thì vật chất hữu cơ từ thức ăn dư thừa, chất thải của cá và phù sa được tích tụ ở đáy ao. Vì vậy, việc bơm cạn nước và vét bùn đáy ao là rất cần thiết để nhằm giảm bớt sự ô nhiễm và mầm bệnh tích tụ ở đáy ao. Thông thường ở ao nuôi cá người ta thường dọn đáy ao bằng cách sử dụng máy hút bùn đối với các ao lớn hoặc vét bùn bằng phương pháp thủ công đối với các ao có diện tích nhỏ. 

    3.  BÓN VÔI VÀ DIỆT TẠP

          Sau khi bơm cạn nước và vét bùn, đáy ao cần được bón vôi nhằm tạo điều kiện để các chất hữu cơ được phân hủy, cải tạo phèn và ổn định pH. Sau một vụ nuôi, vật chất hữu cơ tích tụ ở đáy ao bị phân hủy yếm khí sinh ra nhiều axít hữu cơ làm cho pH của đất đáy ao bị giảm thấp do các ion H+ bị hấp thụ trên bề mặt keo đất. pH thấp sẽ làm ức chế sự phát triển của vi sinh vật phân hủy, pH tăng sau khi bón vôi sẽ kích thích vi sinh vật phát triển và khoáng hóa nhanh các chất hữu cơ còn lại ở đáy ao. Đối với những ao nuôi trên vùng đất nhiễm phèn các cation axít (Al3+ và Fe3+) cũng bị hấp thụ trên bề mặt keo đất gây pH thấp, trường hợp này cũng cần bón vôi để cải tạo nền đáy. Vôi được sử dụng để bón cho ao nuôi cá thường là vôi sống (CaO) hoặc đá vôi nghiền (CaCO3). Tốt nhất nên dùng vôi sống khi chuẩn bị ao vì vôi này có hoạt tính trung hòa cao và diệt mầm bệnh tốt hơn những loại vôi khác. Vôi được rải đều ở đáy ao và cả bờ ao, cần tập trung bón nhiều vôi ở những bãi cho ăn hoặc những nơi đáy ao còn đọng nước. Liều lượng vôi bón khi chuẩn bị ao như sau:

          Sau khi bón vôi, đáy ao cần được phơi từ 2-3 ngày để các phản ứng hóa học được xảy ra dễ dàng và nhanh hơn. Phản ứng hóa học của vôi khi được bón vào ao như sau: 

          Nhờ sự thay thế của cation Ca2+ trên bề mặt hạt keo nên độ pH của đáy ao tăng lên đáng kể (có thể lớn hơn 12). Ở pH cao (pH>12), toàn bộ mầm bệnh và sinh vật địch hại trong lớp bùn đáy ao bị tiêu diệt. Như vậy, bón vôi vừa có tác dụng cải tạo phèn, vừa có tác dụng diệt tạp và mầm bệnh trong ao. Ngoài ra, các xác hữu cơ bị phân hủy nhanh (sau khi pH giảm dần và ổn định sau 2-3 ngày) sẽ là nguồn phân hữu cơ tốt cho sự phát triển các vi sinh vật có lợi cho ao cá về sau.
    Đối với các ao không thể bơm cạn nước thì có thể sử dụng dây thuốc cá (1-2 kg/100 m3) hoặc saponin (0,2-0,3 kg/100 m3) để diệt tạp trong quá trình chuẩn bị ao nuôi cá, tốt nhất nên sử dụng vào lúc trời nắng nóng sẽ tăng tác dụng của hóa chất.

    4.  CẤP NƯỚC VÀO AO VÀ GÂY NUÔI THỨC ĂN TỰ NHIÊN

          Cấp nước vào ao qua túi lọc mịn để ngăn không cho trứng, ấu trùng và con non của các động vật gây hại theo nước vào ao nuôi. Các sinh vật này có thể là vật chủ trung gian lây truyền mầm bệnh cho cá nuôi, cạnh tranh thức ăn hoặc chúng có thể tấn công và ăn cả cá nuôi. Khâu lọc nước vào ao cần đặc biệt chú ý đối với những ao ương từ cá bột lên cá giống. Vì cá bột có khả năng tự vệ, thích ứng với điều kiện môi trường và sức đề kháng rất kém. 
          Việc gây màu nước nhằm làm ổn định điều kiện môi trường nước ao nuôi, ngăn chặn sự phát triển của tảo đáy, tảo độc và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loài sinh vật làm thức ăn tự nhiên nhằm cung cấp một phần nguồn dinh dưỡng cho cá (đặc biệt là đối với ao ương từ cá bột lên cá giống). Thông thường người nuôi sử dụng phân hữu cơ kết hợp với phân vô cơ dùng trong sản xuất nông nghiệp (NPK) hoặc các loại phân bón gây màu nước chuyên dùng cho thủy sản. Phân hữu cơ được dùng phổ biến trong ương nuôi cá là thức ăn công nghiệp với hàm lượng protein cao hoặc bột cá, bột đậu nành. Việc bón phân hữu cơ gây màu nước có thể được thực hiện đồng thời với việc bón vôi trong quá trình chuẩn bị ao, riêng đối với phân vô cơ thì được bón sau khi đã cấp nước vào ao. Liều lượng phân hữu cơ bón gây màu là 0,3-0,4 kg/100 m2 kết hợp với phân vô cơ là 0,2-0,3 kg/100 m2. Nước sau khi được cấp vào ao và bón phân gây màu khoảng 2-3 ngày là có thể thả cá để ương nuôi.
    Bài viết đã được UV-Việt Nam mua tác quyền từ tác giả. Bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có trích dẫn nguồn từ UV-Việt Nam.
    --------------------------------------------------------------------------------------------------

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    Ts Phạm Thị Tuyết Ngân, khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ Thách thức lớn nhất trong ngành tôm ở qui mô toàn cầu là vấn đề dịch bệnh, đặc biệt bệnh có nguồn gốc từ vi khuẩn và chủ yếu là các loài Vibrio (Ajadi et al., 2016; Hoseinifar et al., 2018). Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND), hay còn gọi “hội chứng tôm chết sớm” (EMS), do vi khuẩn Vibriosis gây ra với tỷ lệ chết nghiêm trọng (lên đến 100%) và ảnh hưởng đến kinh tế trên toàn cầu (Lightner et al., 2012; Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Boonsri et al., 2017). Tôm nhiễm bệnh có biểu hiện tăng trưởng chậm, bụng đói và gan tụy bị teo nghiêm trọng (Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Sirikharin et al., 2015; Han et al., 2020). Ban đầu, tác nhân gây bệnh của AHPND đã được báo cáo là do Vibrio parahaemolyticus (VPAHPND) (Tran et al., 2013). Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các vi khuẩn Vibrio spp. khác, chẳng hạn như Vibrio punensis (Restrepo et al., 2018), Vibrio owensii (Liu et al., 2015), Vibrio harveyi-like (Kondo et al., 2015) và Vibrio campbellii (Dong et al., 2017) cũng có khả năng gây AHPND ở tôm. Bên cạnh AHPND, các loại Vibrio khác thường được báo cáo trên tôm nuôi do Vibrio alginolyticus, Vibrio anguillarum, V. harveyi, Vibrio vulnificus, V. campbellii và Vibrio fischeri gây nên bệnh (Lavilla-Pitogo et al., 1990; Lightner, 1996; Lavilla -Pitogo et al., 1998; Chen et al., 2000; Jayasree et al., 2006; Longyant et al., 2008; Zheng et al., 2016; Chandrakala và Priya, 2017; Karnjana et al., 2019). Hơn nữa, các loài không thuộc Vibrio như Aeromonas spp. (Dierckens et al., 1998; Zhou et al., 2019), Streptococcosis spp. (Hasson et al., 2009), Shewanella spp. (Wang et al., 2000), Flavobacterium spp. (Chandrakala và Priya, 2017) và Pseudoalteromonas spp. (Zheng et al., 2016) cũng được ghi nhận là có thể gây ra các bệnh nghiêm trọng NTTS tôm cá. Do đó, các chiến lược tập trung vào việc hạn chế sự phát triển hoặc hoạt động của vi khuẩn gây bệnh là rất cần thiết. Để giải quyết vấn đề tôm nhiễm bệnh AHPND, kháng sinh đã dược sử dụng. Tuy nhiên cho đến nay, hầu như chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho dịch bệnh này, hầu hết các dòng vi khuẩn V. parahaemolyticus kháng được hoàn toàn với oxytetracylin, là kháng sinh chủ yếu trộn vào thức ăn nuôi tôm định kỳ. Do đó sử dụng kháng sinh để trị bệnh không có hiệu quả, ngoài ra việc sử dụng kháng sinh còn gây ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm, đến sự tăng trưởng của tôm và gây ảnh hưởng đến chất lượng tôm.
    07/11/2024
    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC)  Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến nuôi tôm ngoài nguyên nhân nắng nóng kéo dài thì nhiều diện tích tôm nuôi bị thiệt hại còn do nguồn nước trên các kênh rạch bị ô nhiễm nặng, khiến bệnh phát sinh và lây lan. Đặc biệt, nhiều kênh, rạch có độ mặn quá cao đã ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Do vậy để ngành nuôi tôm ven biển phát triển bền vững, rất cần sự đồng hành, đó là tiếp tục đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng vùng sản xuất và ương dưỡng giống tập trung theo quy hoạch chung của ngành, từng bước chủ động nguồn giống tại chỗ cung ứng nhu cầu phát triển sản xuất thủy sản. Giám sát, xử lý để giảm thiểu các nguồn xả thải ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm; đồng thời, hướng dẫn người dân thực hiện tốt các quy định về quản lý, phòng ngừa khi có dịch bệnh xảy ra, hạc chế dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Để đạt được hiệu quả toàn diện này trong nuôi tôm, theo tôi người nuôi phải ý thức mọi vấn đề liên quan và chú trọng đến việc quản lý chất lượng nước nuôi và xả thải để đảm bảo trên qui mô rộng nguồn nước mặt không bị ô nhiễm, đây là giải pháp lâu dài. Do vậy việc sử dụng vi khuẩn hữu ích trong quá trình nuôi và trước khi xả thải là cần thiết để đạt được những hiệu quả tịch cực mà ngành nghề mang lại cho người dân và xã hội.
    08/11/2024
    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN  VÀ MÔI TRƯỜNG

    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN VÀ MÔI TRƯỜNG

    Bệnh đốm trắng do vi-rút là một trong những bệnh nguy hiểm cho tôm nuôi vì tỷ lệ chết cao và thời gian chết rất nhanh. Tuy nhiên, không phải tôm có đốm trắng nào cũng do vi-rút gây ra mà có thể tôm bị đốm trắng do vi khuẩn hay do yếu tố môi trường. Vì vậy, nắm vững kiến thức cơ bản về bệnh đốm trắng như hiểu biết về nguyên nhân, triệu chứng cũng như cách phân biệt bệnh để có chiến lược phòng ngừa và chữa trị là rất cần thiết.
    07/11/2024
    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    - TS. Nguyễn Thị Xuân Hồng - Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học Nông Lâm Huế -
    09/12/2021
    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    -PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ -
    21/09/2021
    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    -Phòng Nghiên Cứu & Phát Triển RD Công Ty Cổ Phần UV-
    13/07/2021
    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    - Phòng Nghiên Cứu và Phát Triển R&D Công ty Cổ Phần UV -
    06/07/2021
    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    PGS. TS. Trần Thị Thanh Hiền - Khoa Thủy sản – Đại học Cần Thơ và Th.S Trần Thị Bé – Khoa Nông Nghiệp – Trường Đại học Bạc Liêu
    19/04/2021
    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    - PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân - Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ -
    06/04/2021
    Một số đặc điểm của vi khuẩn quang dưỡng (VKQD) tía không lưu huỳnh và ứng dụng trong NTTS
    01/03/2021
    Zalo
    Hotline