Hệ Vi Khuẩn Đường Ruột Của Tôm Sú (Penaeus monodon) Và Tôm Thẻ Chân Trắng (Litopenaeus vannamei)

logo
EN

Hệ Vi Khuẩn Đường Ruột Của Tôm Sú (Penaeus monodon) Và Tôm Thẻ Chân Trắng (Litopenaeus vannamei)
Ngày đăng: 01/05/2019 9245 Lượt xem

    PGS.TS. Phạm Thị Tuyết Ngân - Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học Cần Thơ

    Mối quan hệ giữa vi khuẩn và vật nuôi đã được công nhận là yếu tố quyết định đến sức khỏe của vật nuôi. Vi khuẩn trong hệ đường ruột của động vật thủy sinh đóng vai trò quan trọng đối với khả năng tiêu hóa của vật nuôi. Vì vậy, hệ vi sinh vật đường ruột sẽ ảnh hưởng đến vật nuôi về mặt dinh dưỡng, sự đáp ứng miễn dịch và khả năng đề kháng bệnh của vật nuôi (Austin, 2006; Rawls et al., 2004). Sự hiện diện và vai trò của vi khuẩn đường ruột ở động vật giáp xác chưa được nghiên cứu và công bố một cách đầy đủ (Tang et al., 2010). Một số tài liệu cho rằng trong ao, tôm thường xuyên sống trong môi trường nước có mật độ vi khuẩn cao, dao động khoảng 106 to 107 CFU/mL nên không tránh khỏi bị tác động bởi môi trường nuôi (Abraham et al., 2004; Maeda 2002). Mối liên hệ giữa vi khuẩn trong môi trường nuôi và vi khuẩn đường ruột luôn tác động qua lại với nhau do hoạt động thông thương của vi khuẩn qua các hoạt động tiêu hóa, thức ăn đi vào ruột, nước di chuyển qua đường miệng, do vi khuẩn cư trú tạm thời và nhiều nhân tố khác nữa như: cấu tạo hình dạng bên ngoài của vật nuôi, cấu trúc hệ tiêu hóa, chế độ ăn, điều kiện sống của vật chủ và mùa vụ nuôi (Harris 1993).

    Hệ vi khuẩn đường ruột tôm sú (Penaeus monodon)

         Trong những năm gần đây ngành công nghiệp nuôi tôm sú (Penaeus monodon) đã đương đầu với rất nhiều thử thách do giống kém chất lượng và nhất là việc quản lý môi trường và dịch bệnh. Hệ vi khuẩn trong đường ruột của tôm sú cũng đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của hệ tiêu hóa, về dinh dưỡng, sự đáp ứng miễn dịch và khả năng kháng bệnh của tôm. Tuy nhiên, những kiến thức về quần thể vi khuẩn trong đường ruột tôm sú thương phẩm còn rất ít ỏi. Trong nghiên cứu của Chaiyapechara et al. (2011) sử dụng kỹ thuật 16S rDNA PCR-DGGE và giải trình tự gen cho thấy quần thể vi khuẩn đường ruột (thử nghiệm trên 70 cá thể từ 8 ao tôm thương phẩm ở Thái Lan) của tôm sú thuộc lớp γ-Proteobacteria. Giống vi khuẩn chiếm ưu thế trong ruột tôm bao gồm Vibrio, Photobacterium, Aeromonas, Propionigenium (ngành Fusobacteria). Các giống khác như Actinomyces, Anaerobaculum, Halospirulina, Pseudomonas, Mycoplasma và Shewanella cũng xuất hiện trong đường ruột của tôm. Mười hai ngành vi khuẩn có mặt thường xuyên trong đường ruột tôm như Proteobacteria, Firmicutes, Fusobacteria, Actinobacteria, Cyanobacteria, Tenericutes, Deinococcus-Thermus, Planctomycetes, Spirochaetes, Synergistetes, Thermotogae, và Verrucomicrobia. Thêm vào đó, vi khuẩn kỵ khí bắt buộc như  Propionigenium và Fusibacter cũng đã được tìm thấy. Quần thể vi khuẩn đường ruột khác nhau có ý nghĩa thống kê theo từng trại nuôi thương phẩm và từng giai đoạn tôm khác nhau.

         Quần thể vi khuẩn chiếm ưu thế trong hệ đường ruột của tôm sú ở giai đoạn giống nuôi trên bể bao gồm Shewanella, Vibrio, Staphylococcus, Burkholderia, Clavibacter, Brevibacterium, Aeromonas, Plesiomonas, Photobacterium, Pseudoalteromonas và Pseudomonas (Shakibazadeh et al., 2009). Ngoài ra, một số tác giả khác như Shakibazadeh et al. (2009) nghiên cứu quần thể vi khuẩn ở những cơ quan khác nhau (ruột, gan tụy, da và cơ) của tôm sú giống nuôi trong bể cũng tìm được các giống tương tự như Vibrio, Shewanella, Burkholderia, Staphylococcus và Corynebacterium chiếm ưu thế. Một số loài vi khuẩn kỵ khí bắt buộc Firmicutes, Actinobacteria và δ-Proteobacteria cũng được tìm thấy. Trong một nghiên cứu quần thể vi khuẩn đường ruột tôm ở kích thước lớn hơn cho thấy nhiều loài vi khuẩn được tìm thấy trong ruột tôm sú cũng đã được tìm thấy trong môi trường nước lợ. Những loài vi khuẩn được tìm thấy nhiều nhất thuộc  γ-ProteobacteriaVibrio sinaloensis.  V. sinaloensis, Vibrio brasiliensis và Vibrio hepatarius (Gomez-Gil et al., 2008; Maeda, 2002). Những loài khác Vibrio tubiashii, Photobacterium damselae, Aeromonas spp. và Shewanella spp. ít được tìm thấy hơn. Nhiều loài Vibrio trong nghiên cứu này liên quan đến bệnh ở nhuyễn thể (V. tubiashii) (Hada et al., 1984), ở người (Vibrio vulnificus) (Jones và Oliver, 2009). Chỉ có 1 loài gây bệnh cơ hội trên tôm sú là Photobacterium damselae. Phần lớn loài thuộc Aeromonas Aeromonas bivalvium.  

         Một nghiên cứu khác của Renpipat et al., (2000) tìm thấy các giống vi khuẩn Bacillus và Vibrio chiếm ưu thế trong ruột tôm sú bố mẹ đánh bắt ở vịnh Thái Lan. Alavandi et al. (2004) cũng tìm thấy PseudomonasVibrio chiếm ưu thế trong ruột tôm sú nuôi thương phẩm. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, kết quả phân lập vi khuẩn đường ruột của tôm sú thâm canh tại tỉnh Cà Mau cũng tìm thấy vi khuẩn Bacillus và Vibrio chiếm ưu thế (Phạm Thị Tuyết Ngân, 2010).   

    Hệ vi khuẩn đường ruột tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)

         Johnson et al. (2008) đã nghiên cứu trên tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) sử dụng kỹ thuật điện di biến tính  (Denaturing Gradient Gel Electrophoresis = DGGE) cho biết ruột trước của tôm nuôi trong bể tuần hoàn bao gồm các nhóm vi khuẩn Mycobacterium, Propionibacterium, và Desulfocapsa chiếm ưu thế. Ruột sau có nhóm Vibrio chiếm ưu thế. Trong khi đó, Li et al. (2007) tìm thấy Roseobacter sp. và vài nhóm vi khuẩn khác chiếm ưu thế trong ruột tôm chân trắng. Gullian et al. (2004) phân lập vi khuẩn từ gan tụy của tôm thẻ chân trắng tìm được Bacillus và Vibrio là 2 giống chiếm ưu thế. Gullian và Rodrigued (2002) tìm thấy vi khuẩn Bacillus sp. (50%) chiếm ưu thế trong hệ tiêu hóa của tôm thẻ chân trắng.

         Tóm lại, hệ vi khuẩn đường ruột tôm sú nuôi thương phẩm chiếm ưu thế  thuộc  γ-Proteobacteria gồm các giống Vibrio, Photobacterium, Aeromonas. Đôi khi Fusobacteria, Firmicutes, và Actinobacteria cũng được tìm thấy trong quần thể này. Cấu trúc hệ vi khuẩn đường ruột ở tất cả các mẫu thu giống nhau về ngành, nhưng khác nhau có ý nghĩa về giống và loài ở các trại nuôi. Những nghiên cứu về sự đa dạng hệ vi sinh đường ruột ở tôm sú cung cấp những kiến thức khác về các lĩnh vực dinh dưỡng, khả năng đáp ứng miễn dịch, khả năng kháng bệnh và giúp cải thiện môi trường nuôi. Về mặt ứng dụng, bất kỳ nghiên cứu nào có liên quan đến vi khuẩn đường ruột (ví dụ như ứng dụng probiotics) cần xem xét vai trò của cả 2 yếu tố đó là vật nuôi và môi trường nuôi. Thêm vào đó, nhiều loài vi khuẩn khác nhau trong đường ruột có thể có ảnh hưởng tốt đến vật nuôi. Đầu tư nghiên cứu về vai trò của vi khuẩn đường ruột, về những khía cạnh khác nhau liên quan đến sức khỏe tôm sẽ thiết lập được mối liên quan giữa các nhóm vi khuẩn và vật nuôi.

               Vi khuẩn Bacillus sp                                                                                PL 12 Litopenaeus vannamei 

    Bài viết đã được UV-Việt Nam mua tác quyền từ tác giả, bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có trích dẫn nguồn từ Công ty Cổ Phần UV  

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Mặc dầu EM đã được giới thiệu với khoảng 80 loài vi khuẩn hữu ích khác nhau trong thành phần với vai trò có thể tham gia hầu hết các quá trình chuyển hóa vật chất quan trọng trong thủy vực, tuy nhiên để một sản phẩm tồn tại nhiều loại vi khuẩn trong điều kiện lỏng cũng là một điều cần lưu ý. Theo như thông tin trên sản phẩm EM là một hỗn hợp nhiều giống loài ci khuẩn bao gồm: vi khuẩn quang hợp (Rhodopseudomonas palustris tổng hợp ra chất hữu cơ từ CO2 và H2O), vi khuẩn lactic (Lactobacillus chuyển hóa thức ăn khó tiêu thành thức ăn dễ tiêu), nấm men (Saccharomyces cerevisiae sản sinh vitamin và các axitamin), xạ khuẩn (sản sinh chất kháng sinh ức chế vi sinh vật gây bệnh và phân giải chất hữu cơ), nấm mốc, vi khuẩn (Bacillus subtilis phân hũy hợp chất hữu cơ).... Tuy nhiên chọn lựa một sản phẩm EM có chất lượng và ứng dụng đạt hiệu quả đòi hỏi người nuôi nên thận trọng chọn lựa.
    21/05/2025
    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    Ts Phạm Thị Tuyết Ngân, khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ Thách thức lớn nhất trong ngành tôm ở qui mô toàn cầu là vấn đề dịch bệnh, đặc biệt bệnh có nguồn gốc từ vi khuẩn và chủ yếu là các loài Vibrio (Ajadi et al., 2016; Hoseinifar et al., 2018). Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND), hay còn gọi “hội chứng tôm chết sớm” (EMS), do vi khuẩn Vibriosis gây ra với tỷ lệ chết nghiêm trọng (lên đến 100%) và ảnh hưởng đến kinh tế trên toàn cầu (Lightner et al., 2012; Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Boonsri et al., 2017). Tôm nhiễm bệnh có biểu hiện tăng trưởng chậm, bụng đói và gan tụy bị teo nghiêm trọng (Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Sirikharin et al., 2015; Han et al., 2020). Ban đầu, tác nhân gây bệnh của AHPND đã được báo cáo là do Vibrio parahaemolyticus (VPAHPND) (Tran et al., 2013). Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các vi khuẩn Vibrio spp. khác, chẳng hạn như Vibrio punensis (Restrepo et al., 2018), Vibrio owensii (Liu et al., 2015), Vibrio harveyi-like (Kondo et al., 2015) và Vibrio campbellii (Dong et al., 2017) cũng có khả năng gây AHPND ở tôm. Bên cạnh AHPND, các loại Vibrio khác thường được báo cáo trên tôm nuôi do Vibrio alginolyticus, Vibrio anguillarum, V. harveyi, Vibrio vulnificus, V. campbellii và Vibrio fischeri gây nên bệnh (Lavilla-Pitogo et al., 1990; Lightner, 1996; Lavilla -Pitogo et al., 1998; Chen et al., 2000; Jayasree et al., 2006; Longyant et al., 2008; Zheng et al., 2016; Chandrakala và Priya, 2017; Karnjana et al., 2019). Hơn nữa, các loài không thuộc Vibrio như Aeromonas spp. (Dierckens et al., 1998; Zhou et al., 2019), Streptococcosis spp. (Hasson et al., 2009), Shewanella spp. (Wang et al., 2000), Flavobacterium spp. (Chandrakala và Priya, 2017) và Pseudoalteromonas spp. (Zheng et al., 2016) cũng được ghi nhận là có thể gây ra các bệnh nghiêm trọng NTTS tôm cá. Do đó, các chiến lược tập trung vào việc hạn chế sự phát triển hoặc hoạt động của vi khuẩn gây bệnh là rất cần thiết. Để giải quyết vấn đề tôm nhiễm bệnh AHPND, kháng sinh đã dược sử dụng. Tuy nhiên cho đến nay, hầu như chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho dịch bệnh này, hầu hết các dòng vi khuẩn V. parahaemolyticus kháng được hoàn toàn với oxytetracylin, là kháng sinh chủ yếu trộn vào thức ăn nuôi tôm định kỳ. Do đó sử dụng kháng sinh để trị bệnh không có hiệu quả, ngoài ra việc sử dụng kháng sinh còn gây ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm, đến sự tăng trưởng của tôm và gây ảnh hưởng đến chất lượng tôm.
    07/11/2024
    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC)  Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến nuôi tôm ngoài nguyên nhân nắng nóng kéo dài thì nhiều diện tích tôm nuôi bị thiệt hại còn do nguồn nước trên các kênh rạch bị ô nhiễm nặng, khiến bệnh phát sinh và lây lan. Đặc biệt, nhiều kênh, rạch có độ mặn quá cao đã ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Do vậy để ngành nuôi tôm ven biển phát triển bền vững, rất cần sự đồng hành, đó là tiếp tục đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng vùng sản xuất và ương dưỡng giống tập trung theo quy hoạch chung của ngành, từng bước chủ động nguồn giống tại chỗ cung ứng nhu cầu phát triển sản xuất thủy sản. Giám sát, xử lý để giảm thiểu các nguồn xả thải ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm; đồng thời, hướng dẫn người dân thực hiện tốt các quy định về quản lý, phòng ngừa khi có dịch bệnh xảy ra, hạc chế dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Để đạt được hiệu quả toàn diện này trong nuôi tôm, theo tôi người nuôi phải ý thức mọi vấn đề liên quan và chú trọng đến việc quản lý chất lượng nước nuôi và xả thải để đảm bảo trên qui mô rộng nguồn nước mặt không bị ô nhiễm, đây là giải pháp lâu dài. Do vậy việc sử dụng vi khuẩn hữu ích trong quá trình nuôi và trước khi xả thải là cần thiết để đạt được những hiệu quả tịch cực mà ngành nghề mang lại cho người dân và xã hội.
    08/11/2024
    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN  VÀ MÔI TRƯỜNG

    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN VÀ MÔI TRƯỜNG

    Bệnh đốm trắng do vi-rút là một trong những bệnh nguy hiểm cho tôm nuôi vì tỷ lệ chết cao và thời gian chết rất nhanh. Tuy nhiên, không phải tôm có đốm trắng nào cũng do vi-rút gây ra mà có thể tôm bị đốm trắng do vi khuẩn hay do yếu tố môi trường. Vì vậy, nắm vững kiến thức cơ bản về bệnh đốm trắng như hiểu biết về nguyên nhân, triệu chứng cũng như cách phân biệt bệnh để có chiến lược phòng ngừa và chữa trị là rất cần thiết.
    07/11/2024
    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    - TS. Nguyễn Thị Xuân Hồng - Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học Nông Lâm Huế -
    09/12/2021
    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    -PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ -
    21/09/2021
    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    -Phòng Nghiên Cứu & Phát Triển RD Công Ty Cổ Phần UV-
    13/07/2021
    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    - Phòng Nghiên Cứu và Phát Triển R&D Công ty Cổ Phần UV -
    06/07/2021
    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    PGS. TS. Trần Thị Thanh Hiền - Khoa Thủy sản – Đại học Cần Thơ và Th.S Trần Thị Bé – Khoa Nông Nghiệp – Trường Đại học Bạc Liêu
    19/04/2021
    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    - PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân - Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ -
    06/04/2021
    Zalo
    Hotline