Hội chứng lở loét ở Cá Epizootic Ulcerative Syndrome (EUS)

logo
EN

Hội chứng lở loét ở Cá Epizootic Ulcerative Syndrome (EUS)
Ngày đăng: 18/06/2020 12913 Lượt xem

    PGS.TS. Phạm Minh Đức - Khoa Thủy Sản - Đại Học Cần Thơ

    GIỚI THIỆU

           Hội chứng lở loét lần đầu tiên phát hiện trên cá Ayu (Plecoglossus altivelis) và cá đối (Mugil cephalus) ở Nhật Bản năm 1971, cá chẽm bạc (Bidyanus bidyanus) và cá đối ở Úc năm 1972, cá lóc (Channa striata) và cá đối ngoài tự nhiên ở Philipine năm 1987, cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idella), cá lóc (Channa striata) ở Việt Nam năm 1983. Hội chứng lở loét xẩy ra trên cá nước ngọt và cá nước lợ, cửa sông, lây lan nhanh cho cả cá tự nhiên và cá nuôi, ở khu vực Châu Á và Đông Nam Á chẳng hạn như Nhật Bản, Úc, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Philipine, Srilanka, Bangladesh, Ấn độ, Lào, Campuchia và Việt Nam. Theo Lilley et al. (1998) có trên 50 loài cá bị nhiễm bởi hội chứng lở loét.

           Ở Việt Nam, hội chứng lở loét đã xuất hiện khá lâu trên cá lóc (Channa striata), cá trê (Clarias batrachus) ở Đồng Bằng Sông Cửu Long được ghi nhận 1983.

    DẤU HIỆU BỆNH LÝ CỦA HỘI CHỨNG LỞ LOÉT

           Cá ăn ít hoặc bỏ ăn, hoạt động yếu, bơi lội lờ đờ trên mặt nước. Dấu hiệu bệnh lý đầu tiên là những đốm đỏ trên đầu, thân, vây và đuôi. Sau đó, những vết này dần lan rộng và sâu thành những vết loét, xuất huyết. Trường hợp, cá bị bệnh nặng các vết loét lõm sâu tới xương, cơ bị hoại tử. Vùng trung tâm vết loét có màu xám, xung quanh mép vết loét có màu đen. Vi nấm Aphanomyces invadans nhiễm trên những vết loét, hoại tử cơ (Hình 1).

    Hình 1: Một số loài cá bị hội chứng lở loét:

    1) Cá Ayu (Plecoglossus altivelis) Nhật Bản; 2) Cá Bạc (Bidyanus bidyanus) Úc; 3) Cá lóc (Channa striata) Philippine; 4) Cá đối (Mugil cephalus)  Philippine; 5) Cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idella) Việt Nam; 6) Cá trê (Clarias batrachus) Việt Nam; 7) Cá sặc (Trichogaster pectoralis) Việt Nam; 8) Cá lóc (Channa striata) Việt Nam. Nguồn: Melba et al., 2001 và Phạm Minh Đức, 2010.

    ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI VI NẤM Aphanomyces invadans VÀ MÔ BỆNH HỌC

           Vi nấm Aphanomyces invadans là một trong những tác nhân cần được chú ý trong hội chứng lở loét, tác nhân này nhiễm trong tất cả trường hợp. Quan sát mẫu bệnh phẩm (vết loét) cho thấy nhiều sợi nấm và khối u ở cơ cá (Hình 2.1). Nấm Aphanomyces invadans có kích thước túi sinh động bào tử tương đương với sợi nấm và động bào tử tập trung trên đầu mút (Hình 2.2). Khối u sợi nấm nhiều trên vùng cơ lở loét (Hình 2.3) và sợi nấm (đen) trong khối u (Hình 2.4).

    Hình 2: Đặc điểm hình thái của vi nấm Aphanomyces invadans và mô bệnh học: 

    1) Khối u và sợi nấm quan sát tươi mẫu bệnh phẩm; 2) Túi sinh động bào tử và động bào tử; 3) Nhiều khối u trên cơ lở loét - nhuộm HE; 4) Nhiều sợi nấm bắt màu đen trong khối u - nhuộm Grocott.

    YẾU TỐ NGUY CƠ GÂY RA BỆNH

           Một trong những yếu tố dẫn đến hội chứng lở loét lây lan nhanh là do nguồn nước, mùa nước lũ, dòng chảy và vật trung gian mang mầm bệnh. Vi nấm Aphanomyces invadans và Aphanomyces sp. được xem là tác nhân quan trọng gây ra hội chứng lở loét, vì được tìm thấy trong hầu hết các trường hợp. Tuy nhiên, để vi nấm bám và tấn công vào mô cơ thì da cá phải có dấu hiệu bệnh lý đầu tiên như da bị trầy hoặc đốm đỏ. Vi khuẩn Aeromonas hydrophila là tác nhân thứ cấp phân lập được ở vết lở loét.

           Nguyên nhân gây ra hội chứng lở loét phức tạp chẳng hạn do pH và nhiệt độ nước ao thấp, cá mẫm cảm và vi nấm tấn công. Trường hợp khác, cá bị nhiễm vi rút Rhabdo từ đó cá dễ mẫn cảm với các mầm bệnh khác. Trường hợp khác do ký sinh trùng gây tổn thương trên da tạo cơ hội cho vi nấm xâm nhập.          

    GIẢI PHÁP PHÒNG BỆNH

           Phòng bệnh luôn là giải pháp hiệu quả cho sự thành công trong nuôi cá thâm canh. Hội chứng lở loét lây lan nhanh, gây bệnh trên nhiều loài cá, kể cả cá tự nhiên và cá nuôi, nhiều tác nhân gây bệnh nên mức độ thiệt hại và trị bệnh phức tạp. Vì vậy, giải pháp phòng để tiêu diệt hoặc loại bỏ vi nấm Aphanomyces invadans hết sức quan trọng và cần được thực hiện như sau:

    - Chuẩn bị ao nuôi kỹ, sên vét bùn, phơi khô, xử lý đáy ao bằng vôi 10 kg/100 m2. Loại bỏ cá tự nhiên. Đảm bảo thành phần dinh dưỡng thức ăn, nên trộn thêm Vitamin C cho cá ăn.

    - Tạt vôi định kỳ với liều lượng 3 kg/100m3.

    - Định kỳ diệt mầm bệnh bằng thuốc tím, Iodine theo hướng dẫn nhà sản xuất.

    GIẢI PHÁP TRỊ BỆNH

    - Thuốc tím với liều lượng 10 g/mtắm cho cá trong thời gian 30-60 phút, hoặc theo hướng dẫn nhà sản xuất. Diệt khuẩn bằng cách trộn kháng sinh nhạy với vi khuẩn vào thức ăn.

    - Formol với liều lượng 20 mL/m3 tắm trong thời gian 30-60 phút và trị liên tục 3-5 ngày, lưu ý không được trị quá liều hoặc không thực hiện điều trị lúc trời quá nóng.

    - Bronopol với liều lượng được khuyến cáo của nhà sản xuất.

    Bài viết đã được UV-Việt Nam mua tác quyền từ tác giả, bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có trích dẫn nguồn từ Công ty Cổ Phần UV.

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Mặc dầu EM đã được giới thiệu với khoảng 80 loài vi khuẩn hữu ích khác nhau trong thành phần với vai trò có thể tham gia hầu hết các quá trình chuyển hóa vật chất quan trọng trong thủy vực, tuy nhiên để một sản phẩm tồn tại nhiều loại vi khuẩn trong điều kiện lỏng cũng là một điều cần lưu ý. Theo như thông tin trên sản phẩm EM là một hỗn hợp nhiều giống loài ci khuẩn bao gồm: vi khuẩn quang hợp (Rhodopseudomonas palustris tổng hợp ra chất hữu cơ từ CO2 và H2O), vi khuẩn lactic (Lactobacillus chuyển hóa thức ăn khó tiêu thành thức ăn dễ tiêu), nấm men (Saccharomyces cerevisiae sản sinh vitamin và các axitamin), xạ khuẩn (sản sinh chất kháng sinh ức chế vi sinh vật gây bệnh và phân giải chất hữu cơ), nấm mốc, vi khuẩn (Bacillus subtilis phân hũy hợp chất hữu cơ).... Tuy nhiên chọn lựa một sản phẩm EM có chất lượng và ứng dụng đạt hiệu quả đòi hỏi người nuôi nên thận trọng chọn lựa.
    21/05/2025
    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    Ts Phạm Thị Tuyết Ngân, khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ Thách thức lớn nhất trong ngành tôm ở qui mô toàn cầu là vấn đề dịch bệnh, đặc biệt bệnh có nguồn gốc từ vi khuẩn và chủ yếu là các loài Vibrio (Ajadi et al., 2016; Hoseinifar et al., 2018). Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND), hay còn gọi “hội chứng tôm chết sớm” (EMS), do vi khuẩn Vibriosis gây ra với tỷ lệ chết nghiêm trọng (lên đến 100%) và ảnh hưởng đến kinh tế trên toàn cầu (Lightner et al., 2012; Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Boonsri et al., 2017). Tôm nhiễm bệnh có biểu hiện tăng trưởng chậm, bụng đói và gan tụy bị teo nghiêm trọng (Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Sirikharin et al., 2015; Han et al., 2020). Ban đầu, tác nhân gây bệnh của AHPND đã được báo cáo là do Vibrio parahaemolyticus (VPAHPND) (Tran et al., 2013). Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các vi khuẩn Vibrio spp. khác, chẳng hạn như Vibrio punensis (Restrepo et al., 2018), Vibrio owensii (Liu et al., 2015), Vibrio harveyi-like (Kondo et al., 2015) và Vibrio campbellii (Dong et al., 2017) cũng có khả năng gây AHPND ở tôm. Bên cạnh AHPND, các loại Vibrio khác thường được báo cáo trên tôm nuôi do Vibrio alginolyticus, Vibrio anguillarum, V. harveyi, Vibrio vulnificus, V. campbellii và Vibrio fischeri gây nên bệnh (Lavilla-Pitogo et al., 1990; Lightner, 1996; Lavilla -Pitogo et al., 1998; Chen et al., 2000; Jayasree et al., 2006; Longyant et al., 2008; Zheng et al., 2016; Chandrakala và Priya, 2017; Karnjana et al., 2019). Hơn nữa, các loài không thuộc Vibrio như Aeromonas spp. (Dierckens et al., 1998; Zhou et al., 2019), Streptococcosis spp. (Hasson et al., 2009), Shewanella spp. (Wang et al., 2000), Flavobacterium spp. (Chandrakala và Priya, 2017) và Pseudoalteromonas spp. (Zheng et al., 2016) cũng được ghi nhận là có thể gây ra các bệnh nghiêm trọng NTTS tôm cá. Do đó, các chiến lược tập trung vào việc hạn chế sự phát triển hoặc hoạt động của vi khuẩn gây bệnh là rất cần thiết. Để giải quyết vấn đề tôm nhiễm bệnh AHPND, kháng sinh đã dược sử dụng. Tuy nhiên cho đến nay, hầu như chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho dịch bệnh này, hầu hết các dòng vi khuẩn V. parahaemolyticus kháng được hoàn toàn với oxytetracylin, là kháng sinh chủ yếu trộn vào thức ăn nuôi tôm định kỳ. Do đó sử dụng kháng sinh để trị bệnh không có hiệu quả, ngoài ra việc sử dụng kháng sinh còn gây ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm, đến sự tăng trưởng của tôm và gây ảnh hưởng đến chất lượng tôm.
    07/11/2024
    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC)  Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến nuôi tôm ngoài nguyên nhân nắng nóng kéo dài thì nhiều diện tích tôm nuôi bị thiệt hại còn do nguồn nước trên các kênh rạch bị ô nhiễm nặng, khiến bệnh phát sinh và lây lan. Đặc biệt, nhiều kênh, rạch có độ mặn quá cao đã ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Do vậy để ngành nuôi tôm ven biển phát triển bền vững, rất cần sự đồng hành, đó là tiếp tục đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng vùng sản xuất và ương dưỡng giống tập trung theo quy hoạch chung của ngành, từng bước chủ động nguồn giống tại chỗ cung ứng nhu cầu phát triển sản xuất thủy sản. Giám sát, xử lý để giảm thiểu các nguồn xả thải ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm; đồng thời, hướng dẫn người dân thực hiện tốt các quy định về quản lý, phòng ngừa khi có dịch bệnh xảy ra, hạc chế dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Để đạt được hiệu quả toàn diện này trong nuôi tôm, theo tôi người nuôi phải ý thức mọi vấn đề liên quan và chú trọng đến việc quản lý chất lượng nước nuôi và xả thải để đảm bảo trên qui mô rộng nguồn nước mặt không bị ô nhiễm, đây là giải pháp lâu dài. Do vậy việc sử dụng vi khuẩn hữu ích trong quá trình nuôi và trước khi xả thải là cần thiết để đạt được những hiệu quả tịch cực mà ngành nghề mang lại cho người dân và xã hội.
    08/11/2024
    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN  VÀ MÔI TRƯỜNG

    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN VÀ MÔI TRƯỜNG

    Bệnh đốm trắng do vi-rút là một trong những bệnh nguy hiểm cho tôm nuôi vì tỷ lệ chết cao và thời gian chết rất nhanh. Tuy nhiên, không phải tôm có đốm trắng nào cũng do vi-rút gây ra mà có thể tôm bị đốm trắng do vi khuẩn hay do yếu tố môi trường. Vì vậy, nắm vững kiến thức cơ bản về bệnh đốm trắng như hiểu biết về nguyên nhân, triệu chứng cũng như cách phân biệt bệnh để có chiến lược phòng ngừa và chữa trị là rất cần thiết.
    07/11/2024
    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    - TS. Nguyễn Thị Xuân Hồng - Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học Nông Lâm Huế -
    09/12/2021
    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    -PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ -
    21/09/2021
    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    -Phòng Nghiên Cứu & Phát Triển RD Công Ty Cổ Phần UV-
    13/07/2021
    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    - Phòng Nghiên Cứu và Phát Triển R&D Công ty Cổ Phần UV -
    06/07/2021
    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    PGS. TS. Trần Thị Thanh Hiền - Khoa Thủy sản – Đại học Cần Thơ và Th.S Trần Thị Bé – Khoa Nông Nghiệp – Trường Đại học Bạc Liêu
    19/04/2021
    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    - PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân - Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ -
    06/04/2021
    Zalo
    Hotline