Khả Năng Truyền Bệnh Giữa Tôm Thẻ Chân Trắng Và Tôm Sú

logo
EN

Khả Năng Truyền Bệnh Giữa Tôm Thẻ Chân Trắng Và Tôm Sú
Ngày đăng: 04/06/2019 8249 Lượt xem

    TS. Bùi Thị Bích Hằng - Khoa Thủy Sản - Đại Học Cần Thơ

    1 . Giới thiệu

         Tôm sú (Penaeus monodon) đã từ lâu trở thành đối tượng nuôi quan trọng trong nghề nuôi tôm ở Việt Nam. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, nghề nuôi tôm sú gặp nhiều trở ngại như dịch bệnh, giá cả và thị trường tiêu thụ… Do vậy, việc tìm một đối tượng nuôi mới phù hợp và cho lợi nhuận cao là vấn đề mà nhiều nhà nuôi tôm đang quan tâm. Hiện nay, tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) được xem là một trong những đối tượng nuôi tiềm năng. Từ tháng 6 năm 2002, tôm thẻ chân trắng chính thức được Bộ Thủy sản cấp phép nuôi nhưng chỉ với qui mô nhỏ và thử nghiệm tìm hiểu sự ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực đến môi trường cũng như nghề nuôi tôm. Trong thời gian đầu, chín công ty thương mại được Bộ Thủy sản cấp phép nhập khẩu 48 triệu tôm P. vannamei bột, 5900 tôm bố mẹ từ Hawai và Trung Quốc, được kiểm dịch nghiêm ngặt để đảm bảo nguồn tôm không mang mầm bệnh. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây tôm thẻ chân trắng được nuôi tương đối phổ biến nên nguồn tôm giống nhập vào Việt Nam là rất lớn và các cơ quan quản lý khó có thể quản lý được tất cả các nguồn tôm giống nhập vào nước ta. Do vậy, vấn đề được đặt ra là liệu các giống tôm thẻ này có mang mầm bệnh hay không? Nếu mang mầm bệnh thì các mầm bệnh trên tôm thẻ chân trắng có khả năng truyền bệnh cho tôm sú bản địa không? Hoặc mầm bệnh trên tôm sú có khả năng tấn công tôm thẻ chân trắng hay không? Để giải đáp cho thắc mắc này chúng tôi xin trích dẫn nhận định của một số nhà khoa học.

    2. Khả năng nhiễm một số loài virus của tôm thẻ chân trắng và tôm sú

         Vào năm 1989 chỉ khoảng 6 loại virus gây bệnh cho họ tôm he được phát hiện nhưng đến năm 1997 thì đã có hơn 20 loài virus khác nhau gây bệnh trên tôm nuôi thương phẩm cũng như tôm tự nhiên (Hernández Rodriguez et al., 2001). Theo danh sách của tổ chức OIE hiện cho thấy có bảy loại virus ảnh hưởng nghiệm trọng trên tôm bao gồm virus gây bệnh đốm trắng (WSSV), virus gây bệnh đầu vàng (YHV), virus gây hội chứng Taura (TSV), virus gây chết trên tôm trứng (SMV), Baculovirus Penaied (BP), virus gây bệnh còi (MBV) và virus gây hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô (IHHNV). Trong đó các virus gây nguy hiểm cho tôm thẻ chân trắng như WSSV, TSV, BP và IHHNV, khi nhiễm bệnh tôm thẻ hoàn toàn có khả năng gây lây lan nhanh đến các loài tôm tự nhiên khác phân bố trong vùng nuôi (Overstreet, 1997; JSA, 1997 and Flegel). Trong khi đó, tôm sú cũng được xem như một sinh vật có khả năng lây lan dịch bệnh cao đến các loài tôm khác khi mang các virus WSSV, YHV, GAV, IHHNV, MBV, BMNV, LPV (Lightner, 1993; Flegel, 2003).

    2.1. Virus gây hội chứng đốm trắng (WSSV) 

         WSSV được xem là loại virus gây bệnh nguy hiểm trên tôm sú và tôm thẻ chân trắng với tỉ lệ chết có thể lên đến 90%. Đây là một loài virus có độc lực cao, khả năng lây lan nhanh với một số lượng lớn ký chủ bao gồm nhiều loài tôm và giáp xác (Flegel, 1997; Lightner, 1998). Ở Châu Á, WSSV lần đầu tiên được công bố ở Nhật vào năm 1992 sau khi nhập giống nhiễm bệnh từ Trung Quốc. Cùng thời gian đó, WSSV cũng được tìm thấy trên tôm sú nuôi ở Đài Loan và Miền nam Thái Lan (Lightner và Redman, 1998). Sau đó virus nhanh chóng lây lan nhanh trên khắp các vùng nuôi tôm châu Á, năm 1995 WSSV nhiễm và gây ảnh hưởng trên tôm thẻ chân trắng (Tapay, 1996). Ngoài ra WSSV còn lây nhiễm đến một số lượng lớn các loài tôm và giáp xác khác như P. merguiensis, Metapenaeus ensis, Metapenaeus monoceros, Macrobrachium rosenbergiii, Palaemon setiferus, Euphausia superba và các ký chủ này cũng là nguyên nhân lây truyền WSSV (Flegel, 1997; Hossain, 2001)

    Hình 1: Tôm bị nhiễm virus đốm trăng (WSSV)   

    Hình 1: Tôm bị nhiễm virus đốm trắng (WSSV)

    2.2. Virus gây bệnh đầu vàng (YHV)

         YHV lần đầu tiên phát hiện ở miền Tây Thái Lan, sau đó nhanh chóng xuất hiện ở miền Nam Thái Lan, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, Philippine và Việt Nam. Cơ chế lan truyền của YHV trong ao nuôi là do tạp nhiễm từ nguồn nước và từ các loài giáp xác mang mầm bệnh (Flegel, 1997). Một số loài giáp xác có khả năng là ký chủ trung gian như P. merguiensis, Metapenaeus ensis, Palaemon setiferus và Acetes spp, trong khi đó Macrobrachium rosenbergiii và Artemia lại kém nhạy cảm với virus này. Chưa có báo cáo nào cho thấy YHV ảnh hưởng nghiêm trọng lên tôm thẻ chân trắng trong các mô hình nuôi. Tuy nhiên, khi tiến hành thí nghiệm tiêm trực tiếp YHV chiết tách từ tôm nhiễm bệnh lên tôm thẻ chân trắng thì cho thấy có sự nhiễm bệnh và tỉ lệ chết rất cao (Lu, 1994; Lightner, 1996). Điều đó cho thấy YHV hoàn toàn có khả năng lây nhiễm và gây nguy hiểm trên tôm thẻ chân trắng, do vậy cần hết sức cẩn thận trong quá trình nuôi, ngăn chặn các ký chủ trung gian hoặc các loài tôm nhiễm bệnh đến gần các ao nuôi tôm P.vannamei.

           

    Hình 2: Tôm bị nhễm virus gây bệnh đầu vàng (YHV)

    2.3. Virus gây hội chứng Taura (TSV)

         TSV lần đầu tiên phát hiện tại Ecuador vào năm 1992, đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng lên ngành nuôi công nghiệp tôm thẻ chân trắng (P. vannamei). Cơ chế lan truyền TSV hiện vẫn chưa được làm rõ mặc dù theo lý thuyết thì quá trình truyền bệnh là do lây nhiễm từ tôm mẹ và ấu trùng mang mầm bệnh. TSV gây nguy hiểm cho tôm thẻ chân trắng P.vannamei, P. stylirostris và gây nhiễm rất nhanh khi thực hiện thí nghiệm tiêm trực tiếp virus vào tôm. Một số loài tôm khác như P. monodon, P. japonicus, P. chinensis cũng được tiến hành thí nghiệm tiêm virus và cho kết quả một số tôm phát triển bệnh và mang mầm bệnh, có khả năng lây nhiễm cao. Tuy nhiên, một số lại kháng được bệnh (Lightner, 1996; Brock, 1997 và Overstreet, 1997). Một điều thú vị đó là ở các loài tôm P. stylirostris, P. monodon, P. japonicus có biểu hiện qua một số triệu chứng đặc trưng như chậm lớn khi bị nhiễm TSV nhưng TSV lại không gây chết tôm (Brock, 1997). TSV là virus có nhân RNA do vậy khả năng xảy ra đột biến là rất lớn, không có gì để đảm bảo rằng TSV không đột biến thành virus có độc lực cao và ảnh hưởng mạnh lên đàn tôm nuôi (Flegel &Fegan, 2002; Lightner, 2002).

       

    Hình 3. Tôm bị nhiễm virus gây hội chứng Taura (TSV)

    2.4. Virus gây hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô (IHHNV)

         IHHNV lần đầu được phát hiện trên tôm P.vannameiP. stylirostris ở Hawai vào năm 1981 (Lightner, 2002) khi thả nuôi chung với đàn tôm sú (P.monodon) nhập từ Châu Á (Lightner, 2002). Khi nhiễm IHHNV, tôm thẻ chân trắng thường bị dị hình như chũy biến dạng hoặc mất, thân bị cong, chậm lớn làm tỉ lệ tôm nhỏ cao khi thu hoạch. Trong khi đó, tôm sú lại không biểu hiện bất cứ triệu chứng nào khi nhiễm IHHNV và có khả năng mang mầm bệnh trong suốt thời gian sống của chúng. Do vậy, khả năng lây lan mầm bệnh IHHNV sang tôm thẻ chân trắng khi có điều kiện thuận lợi là rất cao (Flegel, 2002).

       

    Hình 4: Tôm bị nhiễm virus hoại tủ cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô (IHHNV)

         Với các nhận định trên, chúng ta có thể thấy một số virus gây bệnh có khả năng lây lan, gây nguy hiểm cho tôm thẻ chân trắng từ tôm sú và ngược lại. Do vậy, cần có cơ chế quản lý nguồn giống và qui hoạch vùng nuôi hợp lý để tránh tình trạng dịch bệnh bùng phát gây thiệt hại cho người nuôi tôm.

    Bài viết đã được UV-Việt Nam mua tác quyền từ tác giả, bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có trích dẫn nguồn từ Công ty Cổ Phần UV

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Mặc dầu EM đã được giới thiệu với khoảng 80 loài vi khuẩn hữu ích khác nhau trong thành phần với vai trò có thể tham gia hầu hết các quá trình chuyển hóa vật chất quan trọng trong thủy vực, tuy nhiên để một sản phẩm tồn tại nhiều loại vi khuẩn trong điều kiện lỏng cũng là một điều cần lưu ý. Theo như thông tin trên sản phẩm EM là một hỗn hợp nhiều giống loài ci khuẩn bao gồm: vi khuẩn quang hợp (Rhodopseudomonas palustris tổng hợp ra chất hữu cơ từ CO2 và H2O), vi khuẩn lactic (Lactobacillus chuyển hóa thức ăn khó tiêu thành thức ăn dễ tiêu), nấm men (Saccharomyces cerevisiae sản sinh vitamin và các axitamin), xạ khuẩn (sản sinh chất kháng sinh ức chế vi sinh vật gây bệnh và phân giải chất hữu cơ), nấm mốc, vi khuẩn (Bacillus subtilis phân hũy hợp chất hữu cơ).... Tuy nhiên chọn lựa một sản phẩm EM có chất lượng và ứng dụng đạt hiệu quả đòi hỏi người nuôi nên thận trọng chọn lựa.
    21/05/2025
    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    Ts Phạm Thị Tuyết Ngân, khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ Thách thức lớn nhất trong ngành tôm ở qui mô toàn cầu là vấn đề dịch bệnh, đặc biệt bệnh có nguồn gốc từ vi khuẩn và chủ yếu là các loài Vibrio (Ajadi et al., 2016; Hoseinifar et al., 2018). Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND), hay còn gọi “hội chứng tôm chết sớm” (EMS), do vi khuẩn Vibriosis gây ra với tỷ lệ chết nghiêm trọng (lên đến 100%) và ảnh hưởng đến kinh tế trên toàn cầu (Lightner et al., 2012; Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Boonsri et al., 2017). Tôm nhiễm bệnh có biểu hiện tăng trưởng chậm, bụng đói và gan tụy bị teo nghiêm trọng (Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Sirikharin et al., 2015; Han et al., 2020). Ban đầu, tác nhân gây bệnh của AHPND đã được báo cáo là do Vibrio parahaemolyticus (VPAHPND) (Tran et al., 2013). Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các vi khuẩn Vibrio spp. khác, chẳng hạn như Vibrio punensis (Restrepo et al., 2018), Vibrio owensii (Liu et al., 2015), Vibrio harveyi-like (Kondo et al., 2015) và Vibrio campbellii (Dong et al., 2017) cũng có khả năng gây AHPND ở tôm. Bên cạnh AHPND, các loại Vibrio khác thường được báo cáo trên tôm nuôi do Vibrio alginolyticus, Vibrio anguillarum, V. harveyi, Vibrio vulnificus, V. campbellii và Vibrio fischeri gây nên bệnh (Lavilla-Pitogo et al., 1990; Lightner, 1996; Lavilla -Pitogo et al., 1998; Chen et al., 2000; Jayasree et al., 2006; Longyant et al., 2008; Zheng et al., 2016; Chandrakala và Priya, 2017; Karnjana et al., 2019). Hơn nữa, các loài không thuộc Vibrio như Aeromonas spp. (Dierckens et al., 1998; Zhou et al., 2019), Streptococcosis spp. (Hasson et al., 2009), Shewanella spp. (Wang et al., 2000), Flavobacterium spp. (Chandrakala và Priya, 2017) và Pseudoalteromonas spp. (Zheng et al., 2016) cũng được ghi nhận là có thể gây ra các bệnh nghiêm trọng NTTS tôm cá. Do đó, các chiến lược tập trung vào việc hạn chế sự phát triển hoặc hoạt động của vi khuẩn gây bệnh là rất cần thiết. Để giải quyết vấn đề tôm nhiễm bệnh AHPND, kháng sinh đã dược sử dụng. Tuy nhiên cho đến nay, hầu như chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho dịch bệnh này, hầu hết các dòng vi khuẩn V. parahaemolyticus kháng được hoàn toàn với oxytetracylin, là kháng sinh chủ yếu trộn vào thức ăn nuôi tôm định kỳ. Do đó sử dụng kháng sinh để trị bệnh không có hiệu quả, ngoài ra việc sử dụng kháng sinh còn gây ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm, đến sự tăng trưởng của tôm và gây ảnh hưởng đến chất lượng tôm.
    07/11/2024
    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC)  Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến nuôi tôm ngoài nguyên nhân nắng nóng kéo dài thì nhiều diện tích tôm nuôi bị thiệt hại còn do nguồn nước trên các kênh rạch bị ô nhiễm nặng, khiến bệnh phát sinh và lây lan. Đặc biệt, nhiều kênh, rạch có độ mặn quá cao đã ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Do vậy để ngành nuôi tôm ven biển phát triển bền vững, rất cần sự đồng hành, đó là tiếp tục đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng vùng sản xuất và ương dưỡng giống tập trung theo quy hoạch chung của ngành, từng bước chủ động nguồn giống tại chỗ cung ứng nhu cầu phát triển sản xuất thủy sản. Giám sát, xử lý để giảm thiểu các nguồn xả thải ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm; đồng thời, hướng dẫn người dân thực hiện tốt các quy định về quản lý, phòng ngừa khi có dịch bệnh xảy ra, hạc chế dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Để đạt được hiệu quả toàn diện này trong nuôi tôm, theo tôi người nuôi phải ý thức mọi vấn đề liên quan và chú trọng đến việc quản lý chất lượng nước nuôi và xả thải để đảm bảo trên qui mô rộng nguồn nước mặt không bị ô nhiễm, đây là giải pháp lâu dài. Do vậy việc sử dụng vi khuẩn hữu ích trong quá trình nuôi và trước khi xả thải là cần thiết để đạt được những hiệu quả tịch cực mà ngành nghề mang lại cho người dân và xã hội.
    08/11/2024
    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN  VÀ MÔI TRƯỜNG

    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN VÀ MÔI TRƯỜNG

    Bệnh đốm trắng do vi-rút là một trong những bệnh nguy hiểm cho tôm nuôi vì tỷ lệ chết cao và thời gian chết rất nhanh. Tuy nhiên, không phải tôm có đốm trắng nào cũng do vi-rút gây ra mà có thể tôm bị đốm trắng do vi khuẩn hay do yếu tố môi trường. Vì vậy, nắm vững kiến thức cơ bản về bệnh đốm trắng như hiểu biết về nguyên nhân, triệu chứng cũng như cách phân biệt bệnh để có chiến lược phòng ngừa và chữa trị là rất cần thiết.
    07/11/2024
    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    - TS. Nguyễn Thị Xuân Hồng - Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học Nông Lâm Huế -
    09/12/2021
    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    -PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ -
    21/09/2021
    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    -Phòng Nghiên Cứu & Phát Triển RD Công Ty Cổ Phần UV-
    13/07/2021
    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    - Phòng Nghiên Cứu và Phát Triển R&D Công ty Cổ Phần UV -
    06/07/2021
    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    PGS. TS. Trần Thị Thanh Hiền - Khoa Thủy sản – Đại học Cần Thơ và Th.S Trần Thị Bé – Khoa Nông Nghiệp – Trường Đại học Bạc Liêu
    19/04/2021
    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    - PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân - Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ -
    06/04/2021
    Zalo
    Hotline