Tác Hại Của Tảo Độc Trong Ao Tôm

logo
EN

Tác Hại Của Tảo Độc Trong Ao Tôm
Ngày đăng: 03/06/2019 13198 Lượt xem

    Ths. Dương Thị Hoàng Oanh, Khoa Thủy sản - Đại học Cần Thơ

    Độc tố tảo là độc tố sinh học được sản sinh ra từ tảo, chủ yếu thuộc 3 ngành: tảo hai rãnh (Dinophyta), tảo lam (Cyanobacteria), tảo silic (Diatom). Ngoài ra, tảo lông roi bám (Haptophyta) và tảo vàng kim (Chrysophyta) cũng được phát hiện có chứa các độc tố. Ở Việt Nam, đã xác định 61 loài tảo độc hại ở các vùng ven biển Bắc bộ,Trung bộ, riêng Nam bộ có khoảng 20 loài (Chu văn Thuộc, 2007).

    Cơ chế gây độc của độc tố tảo lên thủy sinh vật là làm tắc nghẽn mang hay gây độc khi phân hủy giải phóng độc tố ra môi trường hoặc có thể tích lũy trong các sinh vật và thông qua chuỗi thức ăn, chúng gây nguy hại cho các loài động vật ăn thịt bao gồm cả con người (Landsberg, 2002; Backer và ctv, 2003; Hallegraeff, 2004). Các loài động vật thân mềm có vỏ và cá sống rạn là sinh vật chủ yếu tích lũy độc tố tảo, một số sinh vật biển khác như cua, rùa biển và cá mập cũng có thể tích lũy các độc tố này (Shumway, 1990; Landsberg, 2002). Tùy loài tảo, hàm lượng độc tố phụ thuộc vào giai đoạn sinh trưởng khác nhau. Tảo hai rãnh Alexandrium có hàm lượng độc tố cao nhất là giai đoạn tăng trưởng (Cembella, 1998), tảo silic Pseudonitszchia độc tố được sản sinh chủ yếu vào giai đoạn ổn định (Bates, 1998) còn tảo Prorocentrum cordatum chỉ độc ở giai đoạn  tàn lụi (Grzebyk và ctv., 1997).

    Có thể chia hiện tượng nở hoa của tảo độc hại thành 3 loại sau:

    1. Các loài tảo không chứa độc tố, khi nở hoa có thể tăng đến mật độ rất cao ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nước như làm cho pH, oxy hòa tan dao động lớn theo chu kỳ ngày-đêm, tăng hàm lượng ammonia, cạnh tranh dinh dưỡng, khi tảo tàn dễ gây hiện tượng thiếu oxy cục bộ trong ao nuôi, tăng hàm hàm lượng các khí độc gây chết trực tiếp đối với các đối tượng nuôi thủy sản. Một số loài thường gặp là: Gonyaulax polygramma, Noctiluca scintillans (tảo hai rãnh), Trichodesmium erythraeum (tảo lam)...

    2. Các loài tảo sản sinh ra các độc tố mạnh gây tác động trực tiếp đến đối tượng nuôi và cả con người (Liopo, 2001). Các dạng độc tố này thường gặp ở nhóm tảo hai rãnh, tảo silic và tảo lam:

    3. Một số loài tảo không độc với người nhưng lại độc với cá và các động vật không xương sống (đặc biệt trong các hệ thống nuôi thâm canh) do phá hủy hoặc làm tắc nghẽn mang của chúng như là Chaetoceros convolutus (tảo silic), Gymnodinium mikimotoi (tảo 2 rãnh)…

    Sự phát triển của tảo trong ao tôm:

    Dall et al. (1990) cho rằng có mối liên quan mật thiết giữa phytoplankton và sự phát triển của tôm. Nhìn chung, môi trường nước ở các ao tôm khá giàu chất lơ lững, vật chất hữu cơ và các chất dinh dưỡng hòa tan (Paez-Osuna, 2001), điều này phụ thuộc vào mức độ thâm canh (bao gồm: mật độ thả, nguồn nước, phân bón và thức ăn) chất thải càng nhiều thì nitơ và phospho bị thải ra ngoài môi trường càng cao và đó là điều kiện thuận lợi cho tảo nở hoa trong ao tôm (Alonso-Rodriguez và Paez-Osuna, 2003). Có nhiều nguyên nhân gây hiện tượng nở hoa như: bón phân bất hợp lý, sản phẩm thải từ động vật thủy sản và các điều kiện môi trường kể cả nồng độ muối. Các loài gây nở hoa chủ yếu thuộc các giống loài tảo ưa môi trường giàu dinh dưỡng. Tôm cũng có thể ăn tảo khi nó sử dụng chất vẫn ở đáy ao (Gomez-Aguirre và Martınez-Cordova, 1998). Tuy nhiên, khi tảo nở hoa trong ao tôm có nhiều bất lợi, có thể gây hại đến sinh trưởng của tôm (Ming -Yuan và Jians-Heng, 1993; Cortes-Altami và Licea-Duran, 1999). Hiện tượng nở hoa ở tảo trong ao nuôi thường kéo dài khoảng 5-10 ngày tùy vào giống loài tảo và điều kiện môi trường dinh dưỡng. Trong ao, tảo nở hoa có thể gây bệnh đốm nâu (Stirling và Day, 1990) hoặc gây thiếu oxy cục bộ vào ban đêm từ đó dẫn đến sự thiếu oxy trong máu làm tôm chết hàng loạt (Alonso-Rodriguez và Paez-Osuna, 2003).

    Thông thường trong ao nuôi, các loài tảo silic phát triển thì có lợi hơn các nhóm tảo khác. Do đó, để tảo silic phát triển tốt cần bón phân nhiều lần với liều lượng ít để đạt tỉ lệ N/P là 20:1 (Boyd và Daniel, 1993). Khi nồng độ muối giảm, nhiều ngành tảo khác sẽ phát triển ưu thế dưới sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố như nhiệt độ, ánh sáng, độ muối và hàm lượng chất dinh dưỡng... Theo Boyd (1989), tảo silic thường chiếm ưu thế trong ao nước lợ, mặn. Trong khi đó, tảo lục phát triển mạnh ở các ao có độ mặn thấp, muối dinh dưỡng thấp đến trung bình và nhiệt độ ôn hòa. Tuy nhiên, trong các ao tôm ở vùng cận nhiệt đới, nhiệt đới, tảo lam lại là nhóm tảo phát triển ưu thế nhất, kế đến là tảo tảo silic và ít nhất là tảo hai rãnh (Cortes-Altam et al., 1994; Rungsupa et al., 1999). Theo Sevrin và Pletikosic (1990), tảo lam thường ưu thế ở mùa hè, tuy nhiên chúng là nhóm tảo có thể chịu đựng môi trường khắc nghiệt nên có thể phát triển cả trong mùa đông ở các ao nông, ít thay nước và ánh sáng mạnh (Santoyo, 1972). Theo nghiên cứu của Barraza-Guzman (1994), tảo lam nở hoa với mật độ cao nhất đạt 3,5 triệu tế bào/lít.  

    Tảo độc nở hoa trong ao tôm

    Sự nở hoa của nhóm tảo hai rãnh (Dinoflagellate) gây nên thủy triều đỏ ở các ao nuôi tôm đã gây thiệt hại lớn về kinh tế đối với nghề nuôi (Alonso-Rodriguez và Paez-Osuna, 2003). Trên các ao nuôi tôm sú Penaeus monodonP. orientalis ở Đài Loan, Trung Quốc và Malaysia có nhiều giống loài tảo nở hoa do môi trường giàu dinh dưỡng bao gồm: Euglena spp., Noctiluca scintillan, Alexdrium tamarense, Chattonella spp., Protoperidinium balechii; chúng gây ra tình trạng thiếu oxy máu, tiết ra độc tố PSP, ASP làm giảm sinh trưởng ở tôm, gây bệnh, hoặc trực tiếp gây chết tôm (Chen và Gu, 1993; Huei-Meei et al., 1993; Jiasheng et al., 1993; Mingyuan và Jiansheng, 1993; Kotaki et al., 2000). Trong ao tôm thẻ chân trắng Liptopenaeus vannamei, L. stylirostris ở Ecuador và Mexico, một số giống loài tảo nở hoa được phát hiện: Gyrodinium instriatum, Synechocystis diplococcus, Schizothrix calcicola, Prorocentrum minimum, Gymnodinium catenatum. Các loài này thường nở hoa khi môi trường giàu dinh dưỡng hay do sự thay đổi nồng độ muối, chúng tiết ra độc tố PSP và gây thiếu oxy máu làm giảm sinh trưởng và gây chết ở tôm (Jimenez, 1993; Cortes-Altamirano, 1994; Delgado et al., 1996; Cortes-Altamirano và Alonso-Rodrıguez (1997); Cortes-Altamirano và Licea-Duran (1999).  

    Ở Việt Nam, tảo độc nở hoa làm thiệt hại về kinh tế đã được ghi nhận vào tháng 5 và tháng 6/1995, tảo Noctiluca scintillans nở hoa ở khu vực vịnh Vân Phong thuộc vùng biển Khánh Hòa đã làm chết khoảng 20 tấn tôm hùm với thiệt hại ước tính khoảng 6 tỷ đồng (Nguyễn Ngọc Lâm và ctv., 1996). Theo Kotaki et al., (2000) ở  ao nuôi tôm sú tại Đồ Sơn, tảo Nizschia navis-varingica nở hoa do môi trường giàu dinh dưỡng tiết ra độc tố ASP (1,7pg/tế bào, 1 pg = 1/1.000.000 mg) gây chết tôm.

                                                                     

            A: Pseudoniszchia pungens                                                     B: Dinophysis caudata                                                     C: Noctiluca Scintillans 

     

                                                

              D: Microcystis aeruginosa                                                                               E: Noctiluca scintillans nở hoa ở Newzealand

    Một số giống loài tảo độc hại 

    Bài viết đã được UV-Việt Nam mua tác quyền từ tác giả, bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có trích dẫn nguồn từ Công ty Cổ Phần UV

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Mặc dầu EM đã được giới thiệu với khoảng 80 loài vi khuẩn hữu ích khác nhau trong thành phần với vai trò có thể tham gia hầu hết các quá trình chuyển hóa vật chất quan trọng trong thủy vực, tuy nhiên để một sản phẩm tồn tại nhiều loại vi khuẩn trong điều kiện lỏng cũng là một điều cần lưu ý. Theo như thông tin trên sản phẩm EM là một hỗn hợp nhiều giống loài ci khuẩn bao gồm: vi khuẩn quang hợp (Rhodopseudomonas palustris tổng hợp ra chất hữu cơ từ CO2 và H2O), vi khuẩn lactic (Lactobacillus chuyển hóa thức ăn khó tiêu thành thức ăn dễ tiêu), nấm men (Saccharomyces cerevisiae sản sinh vitamin và các axitamin), xạ khuẩn (sản sinh chất kháng sinh ức chế vi sinh vật gây bệnh và phân giải chất hữu cơ), nấm mốc, vi khuẩn (Bacillus subtilis phân hũy hợp chất hữu cơ).... Tuy nhiên chọn lựa một sản phẩm EM có chất lượng và ứng dụng đạt hiệu quả đòi hỏi người nuôi nên thận trọng chọn lựa.
    21/05/2025
    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    Ts Phạm Thị Tuyết Ngân, khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ Thách thức lớn nhất trong ngành tôm ở qui mô toàn cầu là vấn đề dịch bệnh, đặc biệt bệnh có nguồn gốc từ vi khuẩn và chủ yếu là các loài Vibrio (Ajadi et al., 2016; Hoseinifar et al., 2018). Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND), hay còn gọi “hội chứng tôm chết sớm” (EMS), do vi khuẩn Vibriosis gây ra với tỷ lệ chết nghiêm trọng (lên đến 100%) và ảnh hưởng đến kinh tế trên toàn cầu (Lightner et al., 2012; Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Boonsri et al., 2017). Tôm nhiễm bệnh có biểu hiện tăng trưởng chậm, bụng đói và gan tụy bị teo nghiêm trọng (Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Sirikharin et al., 2015; Han et al., 2020). Ban đầu, tác nhân gây bệnh của AHPND đã được báo cáo là do Vibrio parahaemolyticus (VPAHPND) (Tran et al., 2013). Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các vi khuẩn Vibrio spp. khác, chẳng hạn như Vibrio punensis (Restrepo et al., 2018), Vibrio owensii (Liu et al., 2015), Vibrio harveyi-like (Kondo et al., 2015) và Vibrio campbellii (Dong et al., 2017) cũng có khả năng gây AHPND ở tôm. Bên cạnh AHPND, các loại Vibrio khác thường được báo cáo trên tôm nuôi do Vibrio alginolyticus, Vibrio anguillarum, V. harveyi, Vibrio vulnificus, V. campbellii và Vibrio fischeri gây nên bệnh (Lavilla-Pitogo et al., 1990; Lightner, 1996; Lavilla -Pitogo et al., 1998; Chen et al., 2000; Jayasree et al., 2006; Longyant et al., 2008; Zheng et al., 2016; Chandrakala và Priya, 2017; Karnjana et al., 2019). Hơn nữa, các loài không thuộc Vibrio như Aeromonas spp. (Dierckens et al., 1998; Zhou et al., 2019), Streptococcosis spp. (Hasson et al., 2009), Shewanella spp. (Wang et al., 2000), Flavobacterium spp. (Chandrakala và Priya, 2017) và Pseudoalteromonas spp. (Zheng et al., 2016) cũng được ghi nhận là có thể gây ra các bệnh nghiêm trọng NTTS tôm cá. Do đó, các chiến lược tập trung vào việc hạn chế sự phát triển hoặc hoạt động của vi khuẩn gây bệnh là rất cần thiết. Để giải quyết vấn đề tôm nhiễm bệnh AHPND, kháng sinh đã dược sử dụng. Tuy nhiên cho đến nay, hầu như chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho dịch bệnh này, hầu hết các dòng vi khuẩn V. parahaemolyticus kháng được hoàn toàn với oxytetracylin, là kháng sinh chủ yếu trộn vào thức ăn nuôi tôm định kỳ. Do đó sử dụng kháng sinh để trị bệnh không có hiệu quả, ngoài ra việc sử dụng kháng sinh còn gây ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm, đến sự tăng trưởng của tôm và gây ảnh hưởng đến chất lượng tôm.
    07/11/2024
    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC)  Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến nuôi tôm ngoài nguyên nhân nắng nóng kéo dài thì nhiều diện tích tôm nuôi bị thiệt hại còn do nguồn nước trên các kênh rạch bị ô nhiễm nặng, khiến bệnh phát sinh và lây lan. Đặc biệt, nhiều kênh, rạch có độ mặn quá cao đã ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Do vậy để ngành nuôi tôm ven biển phát triển bền vững, rất cần sự đồng hành, đó là tiếp tục đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng vùng sản xuất và ương dưỡng giống tập trung theo quy hoạch chung của ngành, từng bước chủ động nguồn giống tại chỗ cung ứng nhu cầu phát triển sản xuất thủy sản. Giám sát, xử lý để giảm thiểu các nguồn xả thải ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm; đồng thời, hướng dẫn người dân thực hiện tốt các quy định về quản lý, phòng ngừa khi có dịch bệnh xảy ra, hạc chế dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Để đạt được hiệu quả toàn diện này trong nuôi tôm, theo tôi người nuôi phải ý thức mọi vấn đề liên quan và chú trọng đến việc quản lý chất lượng nước nuôi và xả thải để đảm bảo trên qui mô rộng nguồn nước mặt không bị ô nhiễm, đây là giải pháp lâu dài. Do vậy việc sử dụng vi khuẩn hữu ích trong quá trình nuôi và trước khi xả thải là cần thiết để đạt được những hiệu quả tịch cực mà ngành nghề mang lại cho người dân và xã hội.
    08/11/2024
    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN  VÀ MÔI TRƯỜNG

    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN VÀ MÔI TRƯỜNG

    Bệnh đốm trắng do vi-rút là một trong những bệnh nguy hiểm cho tôm nuôi vì tỷ lệ chết cao và thời gian chết rất nhanh. Tuy nhiên, không phải tôm có đốm trắng nào cũng do vi-rút gây ra mà có thể tôm bị đốm trắng do vi khuẩn hay do yếu tố môi trường. Vì vậy, nắm vững kiến thức cơ bản về bệnh đốm trắng như hiểu biết về nguyên nhân, triệu chứng cũng như cách phân biệt bệnh để có chiến lược phòng ngừa và chữa trị là rất cần thiết.
    07/11/2024
    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    - TS. Nguyễn Thị Xuân Hồng - Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học Nông Lâm Huế -
    09/12/2021
    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    -PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ -
    21/09/2021
    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    -Phòng Nghiên Cứu & Phát Triển RD Công Ty Cổ Phần UV-
    13/07/2021
    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    - Phòng Nghiên Cứu và Phát Triển R&D Công ty Cổ Phần UV -
    06/07/2021
    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    PGS. TS. Trần Thị Thanh Hiền - Khoa Thủy sản – Đại học Cần Thơ và Th.S Trần Thị Bé – Khoa Nông Nghiệp – Trường Đại học Bạc Liêu
    19/04/2021
    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    - PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân - Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ -
    06/04/2021
    Zalo
    Hotline